Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đạo Phật, Vũ Trụ Học và Tiến Hóa

02 Tháng Tư 201200:00(Xem: 15517)
Đạo Phật, Vũ Trụ Học và Tiến Hóa
ĐẠO PHẬT, VŨ TRỤ HỌC, VÀ TIẾN HÓA
Tác giả: David Loy 
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển


daophat-vutruhoc-2-contentHình ảnh bề mặt từ kính viễn vọng không gian Hubble, của một thiên hà xoắn ốc được cấu trúc bởi một lỗ đen ở trung tâm của nó. Vòng dày đặc chung quanh cái lõi màu vàng là một khu vực của hoạt động sinh sao. Những cánh tay xoắn ốc thì thấy mờ nhạt.

Ngay cả với tất cả những lý thuyết khoa học sâu xa này về khởi nguyên của vũ trụ, tôi gợi lại những câu hỏi quan trọng: Điều gì tồn tại trước big bang? Big bang đến từ chốn nào? Nguyên nhân làm ra nó là gì? Tại sao hành tinh của chúng ta tiến hóa để hỗ trợ cho sự sống? Mối quan hệ giữa vũ trụ và những thứ hiện hữu đã tiến hóa trong ấy là gì? Các nhà khoa học có thể gạt qua những câu hỏi này như vô lý, hay họ có thể nhận thức tầm quan trọng của chúng nhưng phủ nhận rằng chúng thuộc lãnh vực thẩm tra của khoa học. Tuy nhiên, cả những sự tiếp cận này sẽ có hệ quả về những giới hạn tri thức rõ ràng đối với kiến thức khoa học về khởi nguyên vũ trụ của chúng ta. Tôi không lệ thuộc vào những câu thúc chuyên môn hay lý tưởng của một quan điểm căn bản vật chất trần gian.

- Đức Đạt Lai Lạt Ma

Có sự vĩ đại trong quan điểm [tiến hóa] này về sự sống, với một vài năng lực của nó, ban sơ[1], đã thổi vào một ít hình sắc hay vào trong một hình sắc; và với việc ấy, trong khi hành tinh này luân chuyển phù hợp với quy luật tương ứng hấp dẫn, từ những hình thức rất đơn giản vô thỉ xinh đẹp nhất và kỳ diệu nhất đã và đang tiến hóa.

- Charles Darwin

Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn (hoại), và một thời điểm trống rỗng (không), trước khi những hình thức của một vũ trụ mới từ không gian rực rỡ duy trì. Không gian ấy, theo Thời Luân Mật Pháp (Kalachakra Tantra), không tách rời với thời vô thỉ, tâm thức phổ quát.

Những thúc ép của chủ nghĩa vật chất khoa học

Một nhận thức rất khác biệt được cung ứng bởi khoa học cơ khí. Từ những nguồn gốc Âu châu của nó vào thế kỷ mười bảy đến thành quả sau cùng của nó trong thế kỷ mười chín, nó nhấn mạnh vấn đề ấy là cơ chế vô thức tương tác trong không gian đông cứng. Và những tiền đề này không chỉ là những sự trừu tượng hóa thông minh. Chúng đã trở thành những tin tưởng về thực tại được chia sẻ bởi văn hóa con người ở địa cầu. Cấu trúc kinh nghiệm khách quan của chúng không thể không bị ảnh hưởng bởi khái niệm rằng chúng ta là những cơ chế, tọa lạc trong một vũ trụ cơ giới vô thức.

Những giả định trước như vậy được trình bày không chướng ngại đến tiến trình nổi bật trong khoa học, công cụ, và kỹ thuật. Chúng hiếm khi được đặt vấn đề trong những hệ thống niềm tin thông thường nhất trong khoa học hay xã hội. Chúng ta có thể biết rằng khoa học lượng tử đã khơi mở vật chất cụ thể là những hình thức năng lượng và tiến trình, nhưng chúng ta thích không liên hệ để lưu tâm những hàm ý của sự kiện rằng, với những khám phá như vậy, chủ nghĩa vật chất là tự chuyển biến.

Từ điểm không đến mạng lưới toàn cầu

Điện động lực lượng tử là một lý thuyết tiên đoán đầy năng lực được phát triển bởi khôi nguyên Nobel vật lý Richard Feynman và những người khác. Nó đề xuất rằng những hạt ảo, điện tử (electron) và lượng tử (photon) xuất hiện và biến đi từ phạm vi của điểm không, chân không lượng tử bao quát khắp vũ trụ. Điều này là huyền bí tương tự như vũ trụ học Đạo Phật diễn tả bản chất của vũ trụ như thế nào, phát sinh trong không gian rực rỡ mà là nền tảng của chính tâm thức[2].

Một nền văn hóa bị lèo lái bởi kinh tế giống như những gì chúng ta liên hệ đến sự phân chia như những khám phá hơn là phản chiếu trên những gì hay có lẽ được thay đổi bởi chúng. Nó nhiệt tình đi theo mỗi áp dụng kỷ thuật của vật lý lượng tử - từ chất bán dẫn, tia laser, và quang học sợi đến máy điện toán đến internet. Nó chuyên chở đến cả ngàn tỉ đô la tác động kinh tế của họ. Thông điệprõ ràng: quên lãng vũ trụ học - đấy là kinh tế, ngu xuẩn!

Một vũ trụ tiến hóa

daophat-vutruhoc-3-contentNhưng chúng ta có thể thật sự quên lãng vũ trụ học mà không đánh mất dự tính cho chính chủng loại chúng ta chứ? Chúng ta trước nhất trông thấy sự vĩ đại của thuyết tiến hóa với những khám phá của Charles Darwin về nguồn gốc của sự sống trên mặt đất. Những gì đúng đắn cho nguồn gốc những chủng loại trên hành tinh của chúng ta không nghi ngờ gì nữa phản chiếu một nguyên tắc phổ quát: chúng ta sống trong một vũ trụ tiến hóa, không chỉ là một máy móc vô tri vô giác.

Như Thomas Berry đã chỉ ra, nếu chúng ta khôi phục sự thống nhất nền tảng của tâm linhvật chất, bị chia tách một cách giả tạo bởi chủ nghĩa vật chất khoa học, câu chuyện khoa học về vũ trụ cũng có thể phục vụ một cách đẹp đẻ như câu chuyện thần thánh mới của chúng ta (new sacred story - Câu chuyện của vũ trụ). Đối với vũ trụ học Phật Giáo, sự tiến hóa sinh học hiện diện hoàn toàn không có rắc rối gì: lịch sử tự nhiênlịch sử tâm linhhai mặt của đồng tiền. Tâm thức không có bắt đầu của không gian rực rỡ [3] đã cho sự phát sinh của vũ trụ tiến hóa này và từ một hình thức khởi đầu vô tận vô cùng đơn giản hình thành xinh đẹp nhất và kỳ diệu nhất đã và đang tiến hóa. Nhưng nó không tránh khỏi rằng những hình thức vô chung sẽ tiếp tục để tiến hóa trong một cung cách tự nhiên.

Tin tức lớn nhất cho 65 triệu năm

Sự tự sáng tạo của Trái đất cuối cùng đã tiếp tục trong 4.5 tỉ năm. Hình thức của đời sống sinh học bộc khởi như một đơn bào khoảng 3.8 tỉ năm trước đây. Đời sống đa bào ở tuổi một tỉ năm. Chủng loại con người "cầu trúc hiện đại" là khoảng một phần tư triệu tuổi. Như Wes Nisker viết trong Kinh Tiến Hóa (Evolution Sutra) của ông ta, chúng ta chỉ là một loại động vật mới trên mặt đất.

Những hình thức truyền thừa sự sống ấy đã được tiến hóa phối hợp qua những thử thách ngoại hạng của tiệt chủng và thay đổi. "Những sự kiện tiệt chủng" đã xảy ra khoảng 440, 360, 245, và 208 triệu năm về trước. Lần thứ năm xảy ra 65 triệu năm trước đây, khi một khối đá trời khổng lồ đụng vào bán đảo Yucatan[4]. Những loài khủng long bị quét sạch, chấm dứt kỷ nguyên của những loài bò sát khổng lồ và bắt đầu kỷ nguyên của động vật có vú như chúng ta - Kỷ Đại Tân Sinh - the Cenozoic.

Những nhà sinh vật học và khoa học trái đất đồng ý rằng trong thế kỷ 21, sự tiệt chủng thứ sáu đã bắt đầu, và nguyên nhân duy nhất làm ra là một chủng loại đặc thù: chúng ta. San hô ngầm có lẽ là hệ thống sinh thái học toàn bộ thứ nhất bị xóa sổ khỏi Trái Đất bởi hành vi của con người. Một phần tư những chủng loại cây cò và động vật có thể biến mất vào năm 2050, một khủng hoảng tiến hóa liên hệ đến sự đổ vở khí hậu địa cầu nhưng thường bị làm lu mờ bởi nó. Trong căn bản, kiểu mẫu kinh tế hiện đại đang thúc đẩy toàn bộ đời sống trên Trái Đất đến những cực điểm (tipping points) cho cả hệ thống vi sinh đa dạng và hệ thống khí hậu.

Đây có thể hoàn toàn có thể là tin tức lớn nhất trong 65 triệu năm, nhưng nó hiếm khi được trình bày như tin tức chính thức gì cả, bởi vì nó đưa lên những câu hỏi cấm kỵ cho xã hội phát triển công nghiệpchúng ta đi đến cho là đương nhiên. Chúng ta tốt hơn đừng nghĩ về những hàm ý hay những liên hệ mật thiết đối với lối sống của chúng ta ngày nay, và chủ nghĩa tiêu thụ được cung cấp bởi quảng cáo và sự tuyên truyền liên hợp thúc đẩy chúng ta đừng phiền tới. Thật an lòng hơn để tiếp tục với thể thao! Nhưng những câu hỏi lo âu vẫn hiện hữu. Tại sao chúng ta đang liều lĩnh với sự sụp đổ của tiến trình tiến hóa phổ quát? Chúng ta không ở đây để tồn tạithành công chứ? Tại sao hành tinh chúng ta đã tiến hóa để hỗ trợ sự sống bằng mọi cách?

First published on the Huffington Post, 26.2.2012
Nguyên tác: Buddhism, Cosmology & Evolution
Ẩn Tâm Lộ ngày 20-3-2012
http://www.ecobuddhism.org/wisdom/editorials/bce/


[1] Một vài trích dịch khác của đạo Tin Lành, chỗ này có thêm chữ creator - đấng tạo hóa.

[2] Linh quang, tịnh quang, ánh sáng trong suốt, clear light tương đồng với buddha-nature hay Phật tính

[4] Một tiểu bang của Mexico.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(Xem: 164)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 201)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 225)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 290)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 205)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 255)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 340)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 304)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 304)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 383)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 614)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 476)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 484)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 579)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 753)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 837)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 858)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 845)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 737)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 711)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 715)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 814)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 833)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 941)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 717)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 617)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 714)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 825)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 718)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 708)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 825)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 851)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 827)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 864)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 902)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 887)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1085)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 953)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1672)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1066)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1211)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 956)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1215)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1116)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1123)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1280)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1559)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2034)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1096)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1354)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1097)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 947)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1065)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1100)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1535)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1287)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1293)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1025)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant