Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bàn Về Phật Lịch

02 Tháng Mười 201000:00(Xem: 12074)
Bàn Về Phật Lịch

I. Xác định những mốc lịch sử:

1. Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni). Về vấn đề này, hiện có nhiều thuyết, và nhiều tài liệuViệt Nam chưa nhất quán.

- Mật thể - "Việt Nam Phật giáo sử lược", Minh Đức tái bản, 1960, trang 27 có ghi năm đản sinh như nhau: 1027, 1023, 685, 624, 566, 561, 557, 487, 466 TCN.

- Nguyễn Lang - "Việt Nam Phật giáo sử luận" tập I, 1973, không nêu vấn đề trên.

- Vân Thanh - "Lược khảo Phật giáo sử VN" 1974 thì cho rằng đản sinh vào năm 563 TCN và nhập diệt vào năm 483 TCN (trang 22).

- Lê Mạnh Thất - "Sơ thảo lịch sử Phật giáo Việt Nam", tập 1, Tu thư Vạn Hạnh, cảo bản in rônêô, 1976 ghi là sinh vào khoảng thế kỷ VII trước CN.

- Thích Thanh Kiểm - "Lược sử Phật giáo Ấn Độ", Quê hương, tái bản 1971, xác định đản sinh ngày mùng 8 tháng 4 năm 642 TCN và nhập Niết bàn vào ngày Rằm tháng hai năm Ngài 80 tuổi (544 TCN).

Sau đó ghi thêm 2 thuyết khác là:

+ 566 - 486 TCN (sách Chúng Thánh Điểm Ký)

+ 563 - 483 (Sử Pipavamsa của Nam Phương Phật giáo)

Và ghi thêm: Phật giáo Nam Phương: Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan lại thường lấy năm đức Phật nhập Niết bàn tức năm 544 TCN làm lễ kỷ niệm (sđd trang 31 - 41).

- Thích Minh Tuệ - "Lược sử Phật giáo Việt Nam" (1993) có ghi các mốc ngày tháng đản sinh, xuất gia, thành đạonhập Niết bàn.

- PGS TS Trần Ngọc Thêm - "Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam", 1997, chương 6, mục 22 "Phật giáo và văn hóa Việt Nam" (trang 469 - 470) thì cho rằng sinh khoảng 563 TCN và qua đời khoảng năm 483 TCN. Trước đó, tác giả lại ghi "Đạo Phật hình thành ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ V TCN" (trang 469) (Cũng trong mục này, tác giả có những điểm không nhất quán, hoặc nhầm lẫn. Chúng tôi sẽ có dịp đề cập ở một bài viết khác).

- Huyền Cương - "Thử bàn về cách tính Phật lịch", Nghiên cứu Phật học số 1 - 1997 (trang 25 - 26), sau khi tác giảm làm các phép tính và khẳng định các mốc thời gian: đản sinh 623, xuất gia 604, thành đạo 593, chuyển bánh xe pháp 592, nhập Niết bàn 544 TCN.

- Chúng tôi thiển nghĩ rằng, tất cả các mốc thời gian trên đều dựa vào nhiều truyền thuyết lịch sử đức Phật Thích Ca mà sử sách cũ ghi lại. Có điều, tại sao chúng ta lại không lấy cái mốc thời gianĐại hội Phật giáo Thế giới họp tại Tích Lan lần thứ 1 vào năm 1952 làm chính thống. Tại đại hội này, các vị đại biểu cao tăng thạc đức của toàn cầu đã thống nhất định ra Phật kỳ và Phật lịch. Riêng về Phật lịch, lấy năm đức Thích Ca nhập Niết bàn làm mốc để tính năm đầu Phật lịch. Truyền thuyết về lịch sử đức Phật đều thống nhất là Ngài thọ 80 tuổi (còn các mốc khác lại không nhất quán). Theo cái mốc này ta tính ra như sau:

* Năm 1996 Phật lịch 2540. Điều đó có nghĩa là Thái tử Tất Đạt Đa đản sinh cách đây:

2540 + 80 = 2620 năm và năm đản sinh sẽ là năm 624 TCN, vì 2620 - 1996 = 624

Rất tiếc, trong bài báo của mình, tác giả Huyền Cương dù đưa ra cách tính rất khoa học, sáng tỏ nhưng lại nhằm Phật Lịch 2540 ứng với dương lịch 1997 nên đã xác định năm sinh là 623. Theo chỗ chúng tôi hiểu, tuy Phật giáo thế giới trong kỳ Đại hội 1952 lấy năm Đức Phật Thích Ca nhập diệt là cái mốc để tính năm đầu tiên của Phật lịch, nhưng lại lấy ngày đản sinh (mùng Tám tháng tư hoặc rằm tháng tư) để tính là đầu năm. Vậy Phật lịch 2540 tính tư 8 - 4 Bính Tý 1996, còn năm 1997 (đến ngày 8 - 4 Đinh Sửu 1997) mới tính Phật lịch 2541.

Từ cái mốc trên, căn cứ vào truyền thuyết về lịch sử đức Phật Thích Ca, ta có thể suy ra các mốc sau. (Hiện có nhiều thuyết khác nhau nói về tuổi của năm xuất gia, năm thành đạo. Ở đây chúng tôi dựa vào thuyết tương đối phổ biến mà nhiều nhà Phật học đã chấp nhận).

* Năm xuất gia: 624 - 19 tuổi - 1 (tuổi mụ) = 604 TCN

* Năm thành đạo: 624 - 31 tuổi = 593 TCN

(Tài liệu không nêu rõ số năm đi tu, chỉ nói rằng, Thái tử Tất Đạt Đa sau một thời gian dài tham học các bậc danh sư, kỳ đức như Bạt Già Bà (Bhagavà); A Ra La Ca Lan (Aràlakàlanma) và Uất Đà Ka La Ma Tử (Udraka - Ràmaputta) với nhiều tư tưởng triết lý khác nhau, không xác định rõ số năm. Sau đó, Ngài tự nghĩ "phải chính mình tu thì mới tìm được chính đạo", nên vào rừn phía Tây ngạn sông Ni Liên Thuyền (Naira - njanà) tu khổ hạnh trong 6 năm ròng. Tuy thế, cũng chưa đạt chính quả. Nhờ uống bát sữa của thiếu nữ chăn bò tên Sugìata (Thanh Kiểm ghi là tên Nan Đà) mà Ngài bỏ phương pháp khổ hạnh, ngồi thiền định và chứng ngộ Vô thượng đại Bồ đề vào ngày mùng tám tháng chạp.

* Năm sơ chuyển pháp luân độ 5 anh em ông Kiều Trần Như tại vườn Lộc Dã vào năm sau, tức năm 592 TCN.

* Từ khi thành đạo đến khi nhập Niết bán, đức Phật đã thuyết pháp hoằng hóa trong 49 năm (tính luôn sơ chuyển pháp luân). Vậy ngày nhập Niết bàn là vào năm: 593 - 49 = 544 TCN.

Trên đây là những mốc quan trọng. Ta cũng có thể làm phép tính ngược (lấy năm nhập Niết bàn làm mốc) như tác giả Huyền Cương. Có điều cần lưu ý năm đản sinh như chúng tôi đã nêu ở trên.

II. Đôi điều cần bàn thêm về Phật lịch:

- Mặc dù vào năm 1952, Đại hội Phật giáo thế giới lần thứ I họp tại Tích Lan định ra Phật kỳ và Phật lịch thống nhất trên toàn cầu, nhưng qua tham khảo ý kiến của các bậc cao tăng thạc đức ở tỉnh hội Khánh Hòa, cũng như ý kiến của tác giả Huyền Cương trên tạp chí số 1 - 1997, chúng tôi thấy rằng:

Cách tính Phật lịch mà Đại hội Phật giáo thế giới đã thống nhất có điều chưa hợp lý và thiếu thuyết phục. Chúng tôi rất đồng tình với điều băn khoăn của tác giả Huyền Cương trong bài báo nói trên. Bởi lẽ, nếu tính từ năm nhập Niết bàn thì 49 năm đức Thế Tôn thuyết pháp độ sanh sẽ tính và chỗ nào?

Chúng tôi tâm đắc ý kiến của tác giả rằng: "Sự kiện Ngài bắt đầu chuyển bánh xe pháp mới thực đáng được xem như ngày mở đầu cho kỷ nguyên Phật giáo tại thế gian này, và năm 592 trước dương lịch đáng được chọn làm mốc tính Phật lịch. (NCPH số 1 - 1997). Nhưng tôi nghĩ thêm: có lẽ phải tính Phật lịch từ lúc Ngài thành đạo (tức năm 593 TCN) thì hợp lý hơn cả. Bởi lẽ, có thành đạo, chúng được quả Vô thượng Bồ đề thì từ đó Ngài mới thuyết pháp độ sanh, mới có cơ duyên gieo những hạt giống đạo pháp tốt đẹp, để con người trên thế giới này có điều kiện sống gần gũi với nhau trong tình thương hòa bình, đầy tình người, đậm chất nhân văn hơn. Đây cũng là niềm mơ ước của hàng tỷ con người trên thế giới hiện nay. Cuối cùng, xin cảm ơn tác giả Huyền Cương đã gợi cho tôi có vài suy nghĩ, và qua đôi điều cần bàn thêm, rất mong Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Tổng hội Phật giáo thế giới quan tâm xem xét và có nên định lại Phật lịch thống nhất trên toàn cầu chăng?
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8543)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
(Xem: 5272)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5834)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7458)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6379)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5974)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4759)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5710)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5883)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6126)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6600)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5955)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
(Xem: 7060)
Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người.
(Xem: 6679)
“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Xem: 4813)
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
(Xem: 4942)
Bài viết này sẽ phân tích Bát Nhã Tâm Kinh dưới cái nhìn bất nhị, hy vọng sẽ làm sáng tỏ bài kinh cốt tủy này như một lối đi của Thiền Tông
(Xem: 7721)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ
(Xem: 9829)
Đa số Phật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
(Xem: 7542)
Đạo Phật khai sinh ở Ấn Độ mà cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ; nhưng nhiệt tâm hoằng pháptruyền bá của thế hệ các tăng sĩ tiền bối...
(Xem: 5336)
Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh”
(Xem: 6430)
Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”.
(Xem: 5433)
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sư Nhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
(Xem: 5845)
Sau khi Đức Phật tịch diệt được khoảng 150 năm thì giáo pháp của Ngài tách ra hai đường hướng:
(Xem: 6400)
Giúp đỡ người nghèo khó là một phẩm tính cố hữu của con ngườixã hội loài người. Phẩm tính này vốn tồn tại từ thời xa xưa và vẫn được duy trì trong xã hội hiện đại.
(Xem: 5701)
Làm Thế Nào Có Được Trí Tuệ Lớn Để Đạt Đến Bờ Giải Thoát - Đó phải là quán chiếu, thực hành, tu tập theo giáo lý bát nhã
(Xem: 6445)
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập họp chung quanh đề tài này.
(Xem: 7070)
Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm.
(Xem: 6295)
Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.
(Xem: 10678)
Bấy giờ bỗng nhiên đức Thế Tôn yên lặng. Một lát sau, Ngài lại nói: “Thôi đủ rồi, Xá-lợi-phất, không cần nói nữa. Vì sao ?
(Xem: 6693)
Trong Phật giáo cũng có giới luật do Đức Phật chế định. Nhưng những luật này không bắt buộc mọi người phải tuân theo mà nó ...
(Xem: 6195)
Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh
(Xem: 6750)
Nguyên lý làm tư tưởng nền tảng cho lập trường Pháp hoa chính là cở sở lý tính duyên khởigiáo nghĩa Phật tính thường trú, được biểu hiện qua...
(Xem: 6152)
Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau.
(Xem: 6511)
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng nhất.
(Xem: 5536)
Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về.
(Xem: 8260)
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
(Xem: 5743)
Dharma tức Giáo Huấn của Đức Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ đều tương liên và tương tác với nhau
(Xem: 7570)
Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp.
(Xem: 6264)
Tất cả những điều này rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho những người của các tôn giáo khác nữa.
(Xem: 9665)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 4074)
Nguyên tác: Toward a Science of Consciousness, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6400)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoátgiác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển...
(Xem: 4184)
Vấn đề [tâm] thức đã hấp dẫn nhiều sự chú ý tuyệt mỹ trong lịch sử dài lâu của tư tưởng triết lý Phật giáo.
(Xem: 4311)
Đối nghịch với khoa học, trong Phật giáo không có sự thảo luận triết lý trọng yếu về vấn đề những sinh vật sống xuất hiện từ vật chất vô tri giác...
(Xem: 4773)
Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5338)
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc qua nhiều đế quốc và triều đại
(Xem: 5293)
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm “mục đích ban vui cứu khổ cho hết thảy chúng sanh”.
(Xem: 5825)
Trong lịch sử nhân loại, tùy theo ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa… mà các thể thức tang nghi cũng như phương cách xứ lý xác thân sau khi chết, được thực hiện với nhiều phương cách đặc thù.
(Xem: 6788)
Người xuất gia đích thực thì không khác gì người cày ruộng, gieo trồng, bón phân để thu hoạch thốc lúa.
(Xem: 5557)
Quan Âm Truyền Thuyết (Tuyển Tập) Diệu Hạnh Giao Trinh Chuyển Ngữ
(Xem: 4502)
Một trong những thứ gây cảm hứng nhất về khoa học là việc thay đổi sự thấu hiểu của chúng ta về thế giới dưới ánh sáng của những khám phá mới.
(Xem: 5337)
Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
(Xem: 5004)
Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.
(Xem: 4365)
“Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
(Xem: 6879)
Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người.
(Xem: 4617)
Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.
(Xem: 8421)
Quyển sách nói về Hoàng Đế A Dục tương đối đầy đủ nhất và những cứ liệu của tác giả Lê Tự Hỷ có tính thuyết phục và độ chính xác rất nhiều...
(Xem: 7224)
Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha,
(Xem: 8375)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng - Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn
(Xem: 7532)
Này các tì kheo, người thường tục, không có kiến thức tinh tế, quy phục thế giới hàng ngày của danh, và thấy các sự vật với con mắt, trung thành với các sự vật mà ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant