Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold

09 Tháng Tư 201200:00(Xem: 23097)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold

ÐỨC PHẬT ÐẢN SANH
Qua thi phẩm ÁNH SÁNG Á CHÂU
{
Light of Asia}
của Sir Edwin Arnold


 Trần Phương Lan dịchchú giải

---oOo---

Lời người dịch : Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy:” Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh,vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại. Người ấy là ai ? Ðó là đức Như Lai, bậc A-la-Hán, Chánh Ðẳng Giác” ( Kinh Tăng Chi I )

Ðức Phật đã xuất hiện ở đời dưới hình thức một vị thái tử đầy đủ hảo tướng, tài đức vẹn toàn. Khi trưởng thành, Ngài cũng lập gia đình như một người thường, nhưng sau đó, Ngài muốn tìm giải pháp cho vấn đề sanh tử của đời người, nên Ngài đã làm đại sự xuất thế và đã chứng ngộ chân lý. Ngài trở thành bậc Vô Thượng Giác Ngộ và đem giáo lý của Ngài soi sáng trí tuệ của những ai muốn nghe pháp để tận diệt khổ đau, đạt đến chân hạnh phúc, Niết Bàn bất tử.

Suốt hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, giáo lý của Ðức Phật đã đem lại biết bao niềm hạnh phúc cho các dân tộc Châu Á và dần dần được truyền bá rộng khắp năm châu, vì thế Ðức Phật đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho biết bao công trình văn học nghệ thuật, nghiên cứu, khảo cổ… từ ngàn xưa đến nay

Vào cuối thế kỷ thứ 19, sự xuất hiện của thi phẩm Ánh Sáng Á Châu hay sự Xuất Thế Vĩ Ðại (The Light of Asia or The Great Renunciation) của Sir Edwin Arnold (1832-1904), là một hiện tượng văn học Anh đặc biệt mang đậm dấu ấn Phật giáo đã gây sự chú ý của giới trí thức đương thời. Thi sĩ này vốn là một nhà quý tộc xuất thân từ trường Ðại học King’s College thuộc Viện Ðại Học Cambridge và sau đó học ở Viện Ðại Học Oxford Luân Ðôn, là những lò đào tạo trí thức cho giới thượng lưu của cả Âu Châu ngay từ thế kỷ XII. Nhân chuyến công du sang Ấn Ðộ để làm hiệu trưởng trường Ðại học Poona College ở Bombay (1856 - 1861), vị ấy đã đến với đạo Phật và được cảm hoá vào đạo. Kết quả của thời kỳ Ðông du ấy đã đạt đỉnh cao nhất với thi phẩm The Light of Asia và nhiều dịch phẩm từ nguyên tác Sanskrit. 

Ðặc biệt thi phẩm The Light of Asia được xây dựng quanh chủ đề cuộc đời Ðức Phật từ khi Ngài từ cung trời Tusita (Ðâu-suất-đà) nhập mẫu thai Hoàng hậu Màyà, rồi sinh ra làm thái tử sống đời vương giả ở hoàng cung cho đến ngày Ngài làm đại sự xuất thế tầm cầu chân hạnh phúc để cứu độ nhân loại. Sáu năm khổ hạnh và trận chiến đấu cuối cùng đầy khốc liệt của đạo sĩ Gotama trước sự tấn công như vũ bão của ma vươngma quân quanh cội Bồ đề đã diễn ra vô cùng sinh động dưới ngòi bút tài hoa đầy sáng tạo của thi sĩ cho đến khi Ngài chứng đắc tam minhliễu ngộduyên khởi của vạn pháp. Ngài trở thành bậc chiến thắng trên chiến trường lúc bình minh vừa xuất hiện ở phương Ðông, ánh sao mai mờ dần nhường chỗ cho ánh mặt trời ló dạng trước niềm hân hoan của chư Thiênloài người trên thế giới.

Mặc dù là một người Tây phương sống cách xa thời đức Phật gần hai ngàn năm trăm năm, tác giả tự nhận mình đã thay lời một Phật tử Ấn Ðộ diễn tả lòng ngưỡng mộ thành tín sâu xa của mình đối với cuộc đời kỳ diệu của đức Phậtsự nghiệp thuyết pháp độ sanh của ngài qua thi phẩm trữ tình này, làm cho nó có một sức hấp dẫn mãnh liệt đối với các tầng lớp trí thức Tây phương và đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ Tây phương, nên đã góp công rất lớn vào sứ mạng truyền bá đạo Phật ở Âu Châu và đặc biệt ở Anh từ cuối thế kỷ thứ 19 đến nay

Thi phẩm chấm dứt với lời phát nguyện quy y Tam Bảo của chính tác giả như bất kỳ một đệ tử thuần thành nào trước Ðức Thế Tôn đã đem lại ánh sáng của trí tuệtừ bi để cứu khổ muôn loài chúng sanh trên thế gian

Sau đây là trích đoạn sự kiện đức Phật đản sanh trong phần mở đầu thi phẩm này.

 

Chương một 

Kinh của Ngài, Phật Thế Tôn cứu độ

Sĩ-đạt-ta là Thái tử giáng trần,

Trong đất, trời, địa ngục chẳng ai bằng

Bậc Tối thắng, Ðại từ bi, Trí tuệ

Ðược tất cả muôn loài đồng kính lễ

Bậc Ðạo Sư dạy Giáo pháp Niết bàn.

Như vầy Ngài tái thế cứu nhân gian:

Dưới cõi tối cao, Tứ Thiên Vương (1) ngự

Trị thế gian, và dưới đó là miền

Cao nhưng gần, nơi các vị thánh hiền

Sẽ sống lại ba mươi ngàn năm tới

Chầu Ðức Phật, trên trời cao chờ đợi

nhân gian, hiện năm tướng giáng sanh,

Nên Chư Thiên hiểu biết các điềm lành

Ðồng bảo:” Phật tái sanh giúp thế giới”.

“- Phải, ta đi giúp trần gian, Ngài nói,

Ðời cuối cùng qua bao kiếp tử sanh

Ðến với ta và kẻ học pháp lành

Ta sẽ xuống giữa Thích-ca (2) bộ tộc

Dưới sườn núi miền nam Hy-mã-lạp (3)

Có thần dân mộ đạo với minh quân”.

Một đêm kia, chánh hậu Tịnh Phạn Vương (4)

Bà Mà-Yà (5), ngủ yên bên chúa thượng,

Thấy mộng lạ: sao từ trời hiện xuống

Sáu hào quang màu hồng ngọc huy hoàng

Từ sao kia là một đại tượng vương

Sáu ngà (6) trắng như sữa thần tham dục (7)

Giữa cõi không, chiếu vào bà lập tức

Nhập mẫu thai bên phải. Tỉnh gìấc mơ

Diễm phúc siêu phàm tràn ngập long bà

Và nửa cõi đất, hào quang mầu nhiệm.

Ngay trước ban mai, hào quang xuất hiện:

Các đồi cây lay động, sóng ngàn trùng

Lặng yên dần, hoa nở rộ tưng bừng

Như giữa ngọ, tận các miền ngục tối

Niềm hân hoan của bà hoàng chiếu dọi.

Khi mặt trời ấm áp nhuộm màu vàng

Các khu rừng, xuyên tận các đại dương.

Một tiếng thì thầm dịu dàng vang vọng

“ Hỡi các người chết kia, nay phải sống,

Dậy mà nghe, hy vọng: Phật–đà sanh!

Ở Lâm-tì-ni (8) vạn vật an bình

Ðang trải rộng, tâm thế gian náo nức

Làn gió mát, lạ, lướt qua biển, đất.

Khi bình minh ló dạng, chuyện đem trình

Những người đoán mộng tâu:”Chính điềm lành!

Sao con Cua cùng mặt trời tụ hội,

Hoàng hậu sanh một hoàng nam nối dõi,

Bậc Thánh hiền đại tuệ lợi quần sanh

Sẽ giải thoát loài người khỏi vô minh

Hoặc chiếu cố thế gian và ngự trị (9)

*

Theo cách này, đức Phật–đà giáng thế:

Ðúng giữa trưa, Hoàng hậu đứng lâm bồn

Dưới Sa-la (10) đại thọ trong khu vườn,

Thân hùng vĩ, thẳng cao như ngọn tháp,

Dưới tàng lá sum sê, hoa thơm ngát,

Cùng muôn loài, khi biết đã đến thời,

Cây khôn liền uốn nhánh lá cao vời

Xuống đất để làm mái che Hoàng hậu.

Mặt đất bỗng hiện đủ ngàn hoa báu

Trải tọa sàng. Chuẩn bị tắm hoàng nam

Ðá kế gần phun nước suối trong nguồn (11)

Pha lê chảy, mẫu hoàng ôm con trẻ

Thật bình an. Ngài vẹn toàn thân thể,

Ba mươi hai tướng tốt báo điềm lành (12)

Tin mừng vui vang đến tận cung đình.

Nhưng khi chúng đem kiệu hoa đến đón

Ngài hồi cung, đám người khiêng đôi cáng

Hoá ra là bốn vị Ðại Thiên Vương

Từ núi Tu-di (13) canh giữ bốn phương:

Thần phương Ðông có biệt danh Trì Quốc (14)

Ðoàn tùy tùng khoác xiêm y bằng bạc,

mang theo những khiên mộc ngọc trai.

Thần phương Nam,Tăng Trưởng chính tên ngài,

Ðoàn kỵ mã, Cưu-bàn-trà đại quỷ,

Cỡi ngựa xanh, mang khiên thanh ngọc quý,

Thần phương Tây là Quảng Mục Thiên Vương (16),

Ðoàn quân hầu là các vị Long thần (17)

Cỡi tuấn mã màu máu đào rực rỡ,

Mang các tấm khiên bằng san hô đỏ.

Ða Văn là chúa tể ở Bắc phương (18)

Ðoàn Dạ-xoa hộ tống mặc toàn vàng (19)

Cỡi hoàng thố, mang khiên vàng chói sáng.

Các thiên thần vẫn tàng hình hiện xuống

Khiêng cáng và mặc y phục thường dân,

Song thật ra là các đại lực thần

Cùng rảo bước cùng phàm nhân hôm đó,

loài người không làm sao biết rõ:

Trên cõi trời tràn ngập nỗi hân hoan

Cũng chỉ vì hạnh phúc của trần gian

Khi biết Phật Thế Tôn vừa giáng thế.

Việc này Tịnh Phạn Vương chưa hiểu nghĩa,

Các điềm kia làm chúa thượng lo âu,

Cho đến khi các người giải mộng tâu

Hoàng tử sẽ cầm quyền khắp cõi thế,

Là một Chuyển luân vương (20) lên ngự trị,

Một ngàn năm mới chỉ có một lần,

Ngài chủ quyền luôn bảy thứ bảo trân (21)

Bánh xe báu, ngọc thần kỳ, tuấn mã,

Ngựa báu sẽ dẫm lên ngàn mây gíó,

Một tượng vương sắc như tuyết trắng ngần

Ðược sinh ra để chở vị Thánh quân,

Ðại thần giỏi và tướng quân vô địch,

Một hoàng hậu với dung nhan toàn bích,

Dáng yêu kiều hơn thần nữ Rạng đông (22)

bảy báu kia cùng vị Ðông cung,

Vua ra lệnh kinh thành khai đại lễ:

Mọi lối đi được quét chùi sạch sẽ,

Nước hoa hồng được rảy khắp trên đường,

Cây treo đèn, cờ xí rợp mười phương

Trong lúc đó, từng đám đông vui vẻ

Trố mắt nhìn người múa gươm oai vệ,

Bọn làm trò, nhữ rắn, bọn leo dây,

Bọn nhào lộn và vũ nữ từng bầy

Váy lấp lánh với chuông rung thánh thót

Như cười nhẹ quanh đôi chân nhảy nhót,

Bọn mang mặt nạ da báo, hươu, nai,

Bọn đá chim, luyện cọp và quăng dây,

Bọn đánh trống và những bầy đô vật,

Làm mọi người thật hân hoan hạnh phúc.

Còn thương nhân tấp nập tự đằng xa,

Nghe tin đản sanh đem tặng lắm quà

Trong mâm vàng, đầy khăn quàng, ngọc biếc,

Cây hương liệu, sắc trời chiều tơ dệt

Thật mỏng manh dẫu xếp mười hai tầng

Cũng không thể che khuôn mặt thẹn thùng,

Những chiếc váy được thêu đầy ngọc trắng,

Gỗ đàn hương từ thị thành phụ cận

Cung kính chào “ Hoàng tử Sĩ-đạt-ta”(23),

“ Toàn thành công” họ nói đúng tên kia.

Giữa khách lạ từ phương xa từng đám,

Một bậc Thánh tóc râu màu tro xám,

A-tư-đà (24), người có một đôi tai

Dài chấm đất, nghe âm hưởng từ trời,

Khi cầu nguyện dưới gốc cây sung mãn (25).

Các Thiên thần đồng ca bài “Phật đản”,

Người tinh thông kiến thức bởi tu thiền,

Người đến gần, dáng điệu thật trang nghiêm,

Vua đảnh lễ và mẫu hoàng ra lệnh

Ðưa hoàng nhi đặt dưới chân bậc Thánh.

Nhưng khi nhìn Thái tử, lão Hiền nhân

Thốt tiếng kêu: “Ðừng làm vậy, Nương nương!”

Và đặt khuôn mặt già nua lập tức

Tại chỗ ấy, tám lần người chạm đất,

Nói:” Ta xin đảnh lễ đấng Hài đồng!”

Ngài thật là vị cứu thế chính tông!

Với hồng quang (26), lòng bàn chân có ấn (27),

Cuộn lông mềm, cuốn theo hình chữ Vạn (28),

Ba mươi hai tướng tốt của Thánh hiền,

Và tám mươi tướng phụ đã hiển nhiên (29)

Ngài quả thật chính là người Giác ngộ,

Ngài sẽ thuyết pháp lành và cứu độ

Những người nào được học pháp sau này,

Dù chẳng bao giờ ta được nghe Ngài,

Vì ta sắp phải lìa đời quá sớm,

Ta trước đây chỉ mong ngày số tận,

Tuy nhiên nay ta đã thấy được Ngài.

Phải biết rằng, tâu chúa thường ở đời,

Ðây chính Ðóa Hoa trên cây nhân loại,

Hằng vạn năm mới nở ra sáng chói,

Nhưng nở rồi, làm tràn ngập thế gian

Với hương thơm của trí tuệ siêu phàm,

Và mật ngọt của tấm lòng Từ ái,

Từ gốc rễ của Hoàng gia vĩ đại

Một đóa Hoa sen Thiên giới nở ra,

Ôi! Muôn vàn hạnh phúc hỡi Hoàng gia!

Tuy nhiên cũng chẳng hoàn toàn ân phước,

Vì một lưỡi gươm kia đành xuyên suốt

Cõi lòng bà, do Thái tử ra đời,

Trong lúc bà, hỡi Chánh hậu tuyệt vời,

Ðược Thiên thầnloài người yêu quý

Vì đã sanh bậc Thánh nhân kỳ vĩ,

Nên từ đây bà quá đỗi thiêng liêng

Không thể nào còn chịu lắm ưu phiền,

cuộc đời này chính là khổ hải,

Do vậy trong vòng bảy ngày trở lại,

Lệnh bà không đau đớn dứt sầu bi”.

Việc xảy ra: ngày thứ bảy đêm kia,

Hoàng hậu Màyà mỉm cười say ngủ,

Và từ đấy, đức bà không đi nữa,

Thật hài lòng lên cõi Ðâu-suất đà (30)

Vô số Thiên nhân sùng bái đức bà,

Và hầu hạ Mẫu hoàng thành Thiên nữ.

Còn Hoàng gia tìm mẹ nuôi Hoàng tử,

Ðó chính là Di mẫu Go-ta-mì (31),

Bầu sữa thanh cao nuôi nấng Ấu-nhi,

Ðôi môi ấy sẽ cứu toàn thế giới.

Như vậy theo truyền thuyết, tất cả chư Thiênloài người đều hân hoan trước sự ra đời của Ðức Phật, cho nên bốn vị Thiên Vương đã đích thân đem đoàn tùy tùng của mình xuống vườn Lâm-tì-ni để khiêng kiệu hoa hộ tống Hoàng hậu và Thái tử hài nhi về kinh thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ) cùng với đoàn người hầu cận vua, và bày tỏ sự hân hoan trước niềm hạnh phúc lớn lao của loài người hôm ấy.

  

CHÚ GIẢI :

 

(1) Tứ-Thiên-Vương (Catumahàrajika): Bốn vị Thiên vươngcõi trời thấp nhất trên đỉnh núi Simeru (Tu-di).

(2) Sakya: Tên bộ tộc thuộc quyền cai trị của vua Suddodana.

(3) Himalaya: Tuyết sơn, vùng đồi núi cao nhất thế giới ở miền Bắc Ấn Ðộ và Nepal ngày nay.

(4) Suddodana (Tịnh Phạn Vương): Vị vua cai trị bộ tộc Thích-ca thời bấy giờ.

(5) Màyà (Ma-da): tên bà chánh hậu của vua.

(6) Voi trắng sáu ngà hay Hào quang sáu sắc: là biểu tượng của Ðức Phật theo truyền thống kinh điển.

(7) Kàmaduk: Tên của vị thần tham dục theo truyền thuyết cổ Ấn Ðộ.

(8) Lumbini: Tên một hoa viên nằm trên đường đi của hoiàng hậu lúc bà sắp lâm bồn.

(9) Những người tiên tri đoán mộng giải thích rằng khi sao con Cua hội họp với mặt trời, hoàng hậu sẽ sinh một hoàng nam là bậc thánh hiền đại tuệ có thể ngự trị toàn thế giới hoặc sẽ xuất gia thành đạochứng quả Giác ngộgiải thoát loài người khỏi vô minh.

(10) Sala: cây hoa cao lớn ở vườn Lumbini, theo truyền thuyết, là nơi hoàng hậu đứng và sanh Thái tử.

(11) Hai giòng nước nóng và lạnh từ trời tuôn xuống để tắm hoàng hậu và Thái tử hài nhi theo truyền thuyết.

(12) Thái tử hài nhi có đủ ba mươi hai tướng tốt lành của một bậc Ðại nhân theo khoa xem tướng ở cổ Ấn Ðộ.

(13) Bốn vị Ðại Thiên Vương bảo hộ thế giới ngự trên đỉnh Tu-di là trung tâm của vũ trụ theo vũ trụ quan cổ Ấn Ðộ.

(14) Dhatarattha (Trì Quốc): Vị Thiên vương canh giữ phương Ðông, có đoàn tuỳ tùng là các thần Gandhabba (Nhạc thần).

(15) Virulha (Tăng Trưởng): Vị Thiên vương canh giữ phương Nam, có đoàn tuỳ tùng là các thần Kumbhanda (Cưu-bàn-trà).

(16) và (17) Virupakkha (Quảng Mục): Vị Thiên vương canh giữ phương Tây, có đoàn tuỳ tùng là các thần Nàga (Long thần hay Xà thần).

(18) và (19) Kurera (Ða Văn): Vị Thiên vương canh giữ phương Bắc, có đoàn tuỳ tùng là các thần Yakkha (Thần Dạ-xoa, Ðại lực).

(20) Chuyển luân vương (Cakkavatti): Vị vua cai trị toàn cầu bằng chánh pháp.

(21) Vua có đầy đủ bảy báu vật: bánh xe báu, ngọc báu, ngựa báu và nữ báu.

(22) Rạng đông: tên của một nữ thần trong thần thoại cổ Ấn độ.

(23) Siddhattha: tên của Thái tử có nghĩa là Toàn thành công, Toại nguyện.

(24) Asita: tên vị thánh ở vùng Tuyết sơn đã đắc các thắng trí (Abhinna: lục thông) và tám thiền chứng (jhàna), nhờ thiên nhĩ nghe tin các Thiên thần ca ngợi Ðức Phật đản sanh, nên đã đến thăm Ngài tại hoàng cungđảnh lễ Ngài khi thấy các tướng tốt của Ngài.

(25) Peepul hay pipala: một loại cây sung ở Ấn độ.

(26) Hào quang màu hồng ngọc.

(27) Lòng bàn chân có dấu bánh xe.

(28) Lông cuốn theo hình chữ vạn (Svastika) là một tướng tốt trong 32 tướng chính.

(29) 80 tướng phụ của bậc Ðại nhân theo khoa tướng số ở Ấn độ, có thể trở thành một vị Chuyển luân vương hay một bậc Giác ngộ để cứu đời.

(30) Theo truyền thống kinh điển, Hoàng hậu Màyà từ trần và tái sanh lên cõi trời Ðâu-suất-đà (Tusita), chứ không phải cõi trời ba mươi ba (Tavatimsa) như trong thi phẩm này.

(31) Thứ phi Mahàpajipati Gotamì, em gái của chánh hậu Màyà, trở thành mẹ nuôi Thái tử từ đó và giao hài nhi mới sanh của bà là Hoàng tử Nanda cho một nhũ mẫu.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3185)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 3187)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3575)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 4091)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
(Xem: 5295)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 2716)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6217)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3125)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3182)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3393)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3308)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3372)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4637)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2788)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5295)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3975)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3917)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3284)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4208)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5117)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3615)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6853)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 4049)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3292)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3176)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 3034)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5947)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4715)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3543)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2934)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3358)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4492)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5802)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6713)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3795)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4606)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4681)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 4042)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3476)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4735)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6144)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5910)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3709)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4759)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4527)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4594)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4348)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4676)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8282)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3987)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5797)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5283)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6918)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6276)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 6081)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5898)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6372)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6857)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 5047)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5651)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant