Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vị trời thành đại Sa Môn

05 Tháng Sáu 201200:00(Xem: 16937)
Vị trời thành đại Sa Môn
VỊ TRỜI THÀNH ĐẠI SA MÔN 
Toàn Không

 

 Một thời đức Phật ngự tại rừng trúc Ca Lan Đà thuộc thành La Duyệt, nước Ma Kiệt cùng với 500 Tỳ Kheo. Khi ấy tại cõi Trời Đạo Lợi có một vị Trời (Thiên Tử) than thở lo buồn khổ não, Vua Trời Đế Thiên Đế Thích biết vậy, liền đến chỗ vị ấy hỏi:

- Cớ sao Ông than thở khổ não lo buồn thế?

 Vị Trời ấy đáp:

- Thưa Thiên Đế! Không lo buồn sao được, mạng tôi sắp hết rồi, có 5 điềm báo mệnh chung (mạng hết), đó là:

1- Hoa đội trên đầu đang héo dần đi.

2- Áo choàng trở nên dơ bẩn.

3- Mồ hôi ra khó chịu lắm.

4- Chẳng ưa ngồi tòa nữa.

5- Các Ngọc Nữ xa lánh dần.

 Lại nữa: dù thưởng thức vị ngon hoặc uống nước cam lộ chẳng còn thấy mùi vị ngon gì cả.

 Vua Trời Đế Thích bảo vị Trời:

- Nay Ông cho rằng ở đời là thường hằng, việc này không đúng, Ông không nghe đức Thế Tôn nói sao? Đó là:

Tất cả hành vô thường,
Đã sinh ắt có chết,
Không sanh thì chẳng diệt,
Diệt này là tối thắng.

- Thưa Thiên Đế, thân Trời như mặt trời mặt trăng chiếu sáng khắp cả, nay sắp bỏ thân này, tôi phải vào bụng lợn (heo) tại thành La Phiệt, sống nơi dơ, ăn đồ tạp bẩn cũng không đủ no. Khi bị chết do dao đâm mổ xẻ, thật là khủng khiếp như thế, việc này không buồn sao được?

- Nay Ông nên quy y Tam Bảo Phật Pháp Tăng, có thể không bị đọa ba đường dữĐịa Ngục, Ngạ QuỷSúc Sanh. Đức Thế Tôn đã nói kệ ta còn nhớ là:

Quy y Phật khỏi đọa Địa Ngục,
Quy y Pháp khỏi đọa Ngạ Quỷ,
Quy y Tăng khỏi đọa Súc Sinh,
Quy y Tam Bảo đệ nhất ích.

 Nếu Ông muốn đến chỗ Như Lai xin quy y, hiện Ngài đang ở rừng trúc Ca Lan Đà thành La Duyệt nước Ma Kiệt cùng 500 vị Tăng.

- Bây giờ tôi không còn đủ sức thần thông biến hóa nữa, nên không thể đến đó được.

- Ông nên quỳ gối phải, chắp tay hướng xuống thế gian mà nói:

 “Cúi xin đức Thế Tôn khéo quán sát cho.

Nay con sắp khốn cùng, nguyện xin Như Lai thương xót cho.

Nay con nguyện quy y Phật Pháp Tăng, xin Như Lai chứng tri cho.

Nay con nguyện quy y Tam Bảo được khỏi bị đọa Địa Ngục Ngạ Qủy Súc Sinh, xin Như Lai chứng cho”.

 Vị Trời ấy nghe lời Vua Trời (Đế Thích, Thích Đề Hoàn Nhân), liền quỳ xuống, hướng mặt xuống thế gian xưng tên họ, xin tự quy y Tam Bảo Phật Pháp Tăng, xin làm Phật tử không làm Thiên tử; vị ấy nói ba lần như Vua Trời đã bảo, nhất tâm ý trong sự kính ngưỡng.

 Sau khi qua đời ở cõi Trời, không bị vào thai lợn heo, được sinh vào nhà Trưởng Giả ở thành La Duyệt.

 Ngay khi tự quy y, Vị Trời ấy thấy được duyên này, liền hướng qua Đế Thích nói kệ:

Nhờ Ngài không đọa ác,
Súc sanh nhân rất khổ,
Biết sinh con Trưởng giả,
Nhân đó sẽ thấy Phật.

 Chẳng bao lâu sau đó vợ Trưởng giả tự biết có thai, gần 10 tháng sinh một bé trai đẹp đẽ thế gian hiếm có. Khi đứa bé 10 tuổi, Đế Thích thường đến bảo nó:

- Ngươi có nhớ nhân khi xưa không? Ngươi đã tự nói: “Ta nhân đó sẽ thấy Phật”, nay đúng lúc rồi, hãy đến gặp Phật, nếu không sau sẽ hối hận”.

 Một hôm, Tôn Giả Xá Lợi Phất vào thành khất thực, đến nhà Trưởng giả đứng lặng lẽ ngoài cửa, lúc ấy con Trưởng giả trông thấy hình dạng Tôn giả kỳ đặc, liền đến gần hỏi:

- Ngài là ai, Ngài là đệ tử của ai?

 Tôn giả Xá Lợi Phất đáp:

- Ta là Xá Lợi Phất học đạo nơi Thầy ta là Sa Môn Cù Đàm là bậc Phật (chí chân Như Lai Chính Đẳng Chính Giác).

- Nay Ngài diện mạo uy nghi lặng lẽ đứng đây, Ngài mong muốn điều gì?

 Tôn giả Xá Lợi Phất nói kệ đáp:

Ta nay chẳng cầu tiền,
Chẳng ăn chẳng việc chi,
Chỉ vì ngươi mà đến,
Hãy suy xét lời ta.
Nhớ lời xưa ngươi nói,
Cõi Trời lúc nói thệ,
Làm người sẽ gặp Phật,
Nên đến để bảo ngươi.
Khó có Phật ra đời,
Thuyết pháp cũng như thế,
Thân người chẳng dễ được,
Như hoa Ưu đàm nở.
Nay ngươi nên theo ta,
Đến thăm hỏi Như Lai,
Chắc sẽ vì ngươi nói,
Yếu chỉ của đường lành.

 Sau khi nghe Tôn giả nói kệ, liền trở vào chỗ cha mẹ xin được đi thăm viếng đức Thế Tôn, được cha mẹ đồng ý. Rồi con Trưởng giả mang hương hoa và vải tốt theo Tôn giả Xá Lợi Phất đi đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ. Tôn Giả Xá Lợi Phất thưa:

- Đức Thế Tôn, con Trưởng giả chưa biết Tam Tôn (Phật Pháp Tăng), cúi mong Thế Tôn giảng dạy cho con Trưởng giả được sự hiểu biết.

 Lúc ấy, con Trưởng giả từ xa trông thấy đức Phật dung mạo uy nghi, đẹp đẽ trang nghiêm nhìn mãi không chán, liền tiến lên đến gần lễ lạy, rồi lấy hương hoa rải lên thân đức Phật đang ngồi, lại lấy sấp vải dâng lên.

 Khi ấy đức Phật thuyết các luận bố thí, giới cấm, dục là dơ bẩn, các việc làm xấu là tai họa, xuất giacần yếu. Khi chú bé tâm đã khai mở, Ngài nói về khổ, nguyên nhân gây ra khổ, làm sao diệt khổ, con đường đạo quả. Lúc ấy chú bé thấm nhuần lãnh thụ hết, sạch hết cái xấu ở đời, được tâm trong sạch như tờ giấy trắng. Đuợc như thế rồi, con Trưởng giả liền xin được theo Phật. Ngài bảo:

- Còn ít tuổi, phải có phép của cha mẹ, không từ giã cha me, chẳng được làm Sa Môn.

 Con Trưởng giả thưa:

- Con sẽ trở về xin cha mẹ chấp thuận,

- Nếu vậy, bây giờ là đúng lúc.

 Con Trưởng giả liền đứng dậy cúi lạy rồi lui về nhà thưa với cha mẹ xin được theo đức Phật làm Sa Môn, nhưng cha mẹ từ chối và nói:

- Chỉ có một mình con, trong nhà lại có nhiều của cải tài sản, vả lại tu theo Sa Môn không dễ dàng đâu, con nên suy nghĩ cho kỹ.

 Con Trưởng giả đáp:

- Ức kiếp mới có Phật ra đời, đúng thời mới xuất hiện, như hoa Ưu đàm bát đúng thời mới nở chứ không phải lúc nào cũng có đâu, nên con không muốn bỏ mất cơ hội tốt này, xin cha mẹ chấp thuận cho con.

 Ông bà Trưởng giả thấy con nói có lý, không biết làm sao, nên nói:

- Nếu con đã suy nghĩ kỹ và nhất quyết, thì cha mẹ không ngăn cản.

 Lúc ấy, con Trưởng giả vái lạy cha mẹ từ giã ra đi đến chỗ đức Phật cúi lạy rồi thưa:

- Cha mẹ con đã bằng lòng cho con được theo chân đức Thế Tôn, cúi mong Ngài cho con được làm Sa Môn.

 Bấy giờ đức Phật bảo Tôn giả Xá Lợi Phất:

- Nay Thầy độ cho con Trưởng giả làm Sa Môn.

- Xin vâng, thưa Thế Tôn.

 Tôn giả Xá Lợi Phất vâng lời đức Phật dạy, độ cho con Trưởng giả làm Sa Di, ngày ngày dạy dỗ. Sa Di ấy ở trong chỗ vắng tu hành, khắc phục mọi khó khăn tu hành như các vị con nhà danh giá xuất gia học đạo, tu phạm hạnh (khuôn mẫu đức hạnh phép tắc) tối cao, muốn được xa lìa khổ não của cuộc đời. Sau một thời gian tu hành nghiêm chỉnh như thế, Sa Di đạt tới bậc A La Hán, Tôn giả ấy đến chỗ đức Phật thưa:

- Con đã học Phật nghe pháp, tu hành đầy đủ, nay không còn nghi ngờ gì nữa.

 Đức Phật hỏi:

- Thầy học hỏi tu hành như thế nào mà không còn hồ nghi nữa?

 Sa Di thưa:

- Sắc là vô thường, vô thường thì khổ, khổ thì vô ngã, vô ngã tức là không, không là chẳng phải có, cũng chẳng phải không có.

 Thọ, tưởng, hành, thức vô thường, vô thường thì khổ, khổ thì vô ngã, vô ngã tức là không, không tức là chẳng phải có, chẳng phải không; người trí hiểu biết như thế, nhiều sự khổ não không thể trị liệu, không thể giữ mãi, ắt phải quán vô ngã.

 Hôm nay con quán sát pháp này, liền thấy được Như Lai”.

 Đức Phật bảo:

- Lành thay, lành thay! Sa Di, cho Thầy làm đại Sa Môn.

 

LỜI BÀN:

 Bài Kinh này dạy chúng ta điều gì?

1- Trước hết là dù có được sinh đến cõi Trời, khi hết phúc báo, hết tuổi thọ cõi Trời rồi lại bị đọa nếu ở cõi Trời không biết tu hành. Vì ở cõi Trời sung sướng thường thích hưởng thụ nên quên tu hành, trong 6 tầng Trời thuộc Dục giới, chỉ có cõi Đâu SuấtĐao Lợi là có Phật Pháp đang lưu hành. Ở các cõi Sắc giới cũng có Phật pháp lưu hành như cõi Phạm Thiên; tuy nhiên ngay cả tại ba cõi vừa kể, không phải chư Thiên nào cũng biết đến Phật pháp; như ở cõi NgườiPhật pháp đang lưu hành, nhưng không phải mọi người trên địa cầu này đều biết phật pháp. Ngay cả những người biết Phật pháp, chưa chắc đã tu hành theo.

2- Thứ nữa là sự quy y Phật Pháp Tăng đã đem lại lợi ích lớn, như vị Trời kia nếu không được Vua Trời mách bảo, và nếu không tự quy y, thì đã bị đọa sinh vào loài lợn heo rồi. Cái lợi của sự quy y Tam Bảo to lớn như thế, nhưng đa số chúng ta không thấy sự lợi lạc này, nên nhiều người đã coi thường sự quy y. Vậy những ai chưa quy y hãy đến bất cứ Chùa nào mà mình cảm thấy vị Thầy có tâm đạo hạnh để xin quy y, đừng bỏ lỡ.

3- Còn việc Tôn giả Xá Lợi Phất đến nhà Trưởng giả đứng làm thinh để độ cho con Trưởng giả là do nguyên nhân nào?

 Có thể rằng Vua Trời Đế Thích đã nói với Tôn giả sự việc, cũng có thể Tôn giả quán sát biết, hoặc do đức Phật cho Tôn giả biết.

4- Một điểm thiếu sót, không hiểu tại sao Kinh này không nói tên của vị đại Sa Môn ấy?

5- Đến đây, chúng ta thử bàn về đoạn chót của bài Kinh:

 Sau khi Sa Di tu hành thấy có kết quả rồi, bèn đến chỗ đức Phật thưa rằng: “Con đã học Phật nghe pháp, tu hành đầy đủ, Nay không còn nghi ngờ điều gì nữa”, ý nói đã học đầy đủ, tu hành trọn vẹn, đã đạt mục đích, nên không còn việc gì phải làm nữa.

 Đức Phật liền hỏi: “Thầy học hỏi tu hành thế nào mà không còn hồ nghi nữa?Đức Phật muốn trắc nghiệm xem Sa Di đã học hỏi như thế nào, hiểu biết ra sao, thực hành đến đâu rồi?

 Sa Di bạch: “Sắc là vô thường, vô thường thì khổ, khổ thì vô ngã, vô ngã tức là không, không là chẳng phải có, cũng chẳng phải không có”, Chúng ta thử phân tích xem đoạn này Tôn giả Sa Di muốn nói gì?

- Sắc là vô thường:

 Sắc là vật chất, mọi vật chất đều biến đổi, như cái nhà, cái xe, thân xác chúng ta mỗi ngày mỗi thay đổi. Từ mới thành cũ thành hư, từ trẻ thành già thành bệnh rồi chết; như vậy rõ ràng chẳng có cái gì chắc chắn trường tồn, nên “sắc là vô thường”.

- Vô thường thì khổ:

 Cái nhà cái xe cũ đi, hư hỏng, làm cho ta lo buồn; thân ta mỗi ngày già đi, yếu đi, sinh bệnh tật rồi chết làm cho ta buồn khổ. Như vậy vì những sự thay đổi tồi tệ ấy làm cho ta không vui được, như thế rõ ràng “vô thường thì khổ”.

- Khổ thì vô ngã:

 Vô ngã: là không có tôi, không có ta, tại sao khổ thì vô ngã? Đây chỉ là một cách nói, chính ra nên nói: “Khổ thì phải vô ngã” vì có ngã có ta nên mới khổ, nếu không chấp ngã. không chấp ta thì hết khổ, nếu không chấp cái của ta thì hết khổ, tại sao? Vì chấp cái thân này là mình, chấp cái nọ cái kia là của mình, chấp chặt như thế, nên khi thân này già đi yếu đi, bệnh hoạn đến chết, cái xe bị hư hỏng v.v..., thì cảm thấy buồn khổ.

 Nếu không cho thân này là ta, không cho cái nọ cái kia là của ta, thân này có bệnh hoạn già chết, cái xe hư hỏng v.v..., cũng chẳng động tâm thì làm sao buồn khổ được, nếu không chấp ta, không chấp cái của ta sẽ hết khổ, nên nói “khổ thì phải vô ngã để hết khổ”.

 Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành; Tâm gồm “Thọ, Tưởng, Hành, Thức”; thân kết hợp bởi các bộ phận, tất cả bộ phận thân thể đều do sự kết hợp của các tế bào nguyên tử mà thành, các tế bào luôn sinh diệt không ngừng, nên nó là vô thường, chẳng có cái gì có thể gọi là cái ta, đó là về Sắc Thân.

 Còn về Tâm gồm: cảm giác (Thọ); suy nghĩ, tưởng nhớ (Tưởng); tác ý, ý muốn, suy nghĩ (Hành); phân biệt, so sánh (Thức). Tâm gồm bốn thứ thuộc tinh thần, chúng luôn luôn thay đổi không cố định, như cảm giác có lúc buồn có lúc vui (Thọ), có lúc suy nghĩ tưởng nhớ có lúc không suy nghĩ tưởng nhớ (Tưởng), có lúc suy nghĩ muốn làm có lúc không suy nghĩ, không muốn làm gì cả (Hành), có lúc phân biệt so sánh việc này việc nọ có lúc không muốn phân biệt so sánh gì cả (Thức). Như vậy bốn món của tâm không đồng nhất, luôn luôn biến đổi, nên chẳng có cái nào được gọi là ta, do đó “Vô thường thì vô ngã”.

- Vô ngã tức là không: Tại sao?

 Vì đã cho rằng: không có Ngã, tức không chấp nhận cái thân tâm này là ta rồi, nó chỉ là giả có tạm có, chứ nó không có thực thể gì, nên nó là không, nên nói “Vô ngã tức là không” là vậy.

- Không là chẳng phải có, cũng chẳng phải không: Là sao?

Không là chẳng phải có: Là sao? Tức là thân tâm này chẳng phải thật có, chẳng thể chấp chặt để rồi sinh ra đủ thứ xấu xa, như sinh ra tham lam, giận hờn, kiêu ngạo, ích kỷ, nói dối v.v... để gìn giữ bảo thủ cho cái ta; nếu không chấp cái thân tâm này là có, đâu còn sinh ra những thứ xấu xa như thế nữa?

Không cũng chẳng phải là không có: Là sao? Tức là tuy coi cái thân này là giả hợp, là tạm, do nhân duyên hợp mà tạm có, là không, nhưng không phải là không ngơ chẳng có gì như trong cái bình không có không khí và bất cứ vật gì. Không phải là không như thế đâu, mà trong cái thân này còn có một thứ trong sạch, tròn sáng nhỏ hơn đầu kim nhọn, lớn bằng đại vũ trụ, nó rất quý giá; cái quý giá này gọi là chân không diệu hữu, không thể nghĩ bàn, nó chính là Phật tánh của mỗi người mà đức Phật đã chỉ cho chúng ta, bởi vậy mới nói “Không chẳng phải là không có”, là vậy.

Toàn Không

(CÙNG TÁC GIẢ)

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2708)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
(Xem: 2028)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 3040)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2646)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3561)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3380)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4219)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3737)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
(Xem: 4277)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 2360)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3530)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4214)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 3997)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2921)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3409)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3531)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4592)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3935)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4817)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 4085)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 3064)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3806)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3953)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 3126)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3649)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4497)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3763)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2306)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2668)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 3073)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2761)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4634)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 4978)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2870)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5379)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2897)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3335)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4422)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 4983)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4746)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3290)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4595)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4319)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6185)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3541)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 4082)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 6058)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5455)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 4107)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 33337)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3213)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4202)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 4771)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 3136)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3853)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3589)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6608)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2818)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3272)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4636)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant