Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vài ghi chú về Pho tượng Phật Giáo tạc từ một khối thiên thạch

10 Tháng Mười 201200:00(Xem: 14658)
Vài ghi chú về Pho tượng Phật Giáo tạc từ một khối thiên thạch

VÀI GHI CHÚ VỀ

Pho tượng Phật Giáo tạc từ một khối thiên thạch
Hoang Phong

photuongpg-hoangphong

 the-buddhist-statue-hoangphongGần đây một mẩu tin về một pho tượng Phật do người Đức đánh cắp của Tây Tạng từ năm 1938 vừa được các khoa học gia phát hiện đã được báo chí khắp thế giới đăng tải. Pho tượng được người Tây Tạng tạc vào thế kỷ XI từ một khối thiên thạch vô cùng hiếm hoi đã rơi xuống địa cầu cách nay khoảng 10.000 năm đến 20.000 năm.

 Mẩu tin nhỏ này được đưa lên một số trang web nhằm mục đích giúp những người quan tâm về những thông tin Phật Giáo trên thế giới, thế nhưng thật hết sức bất ngờ là lại có nhiều người đặc biệt chú ý đến sự kiện khá "kỳ thú" này.

 Hầu hết đều thắc mắc về các chữ VaisravanaSambhala tức là tên gọi của pho tượng, tại sao hai chân của pho tượng lại buông thõng mà không bắt tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền như thường thấy, và đồng thời ý nghĩa của chữ Vạn là gì v.v..., Do đó người viết xin mạn phép nêu thêm vài ghi chú nhỏ với hy vọng có thể giải thích những thắc mắc này. Trước hết là một vài chi tiết về chữ Vạn.

Dấu hiệu chữ Vạn

 Chữ Vạn tiếng Phạn là Swastika, là một ký hiệu mang tính cách thần bítôn giáo, được tìm thấy từ 2.500 năm đến 3.000 năm trước Tây Lịch ở khắp nơi trên địa cầu, từ Đông sang Tây, từ Bắc Phi (Ai Cập) đến nam Thái Bình Dương (Úc Châu) và cả Mỹ Châu. Tóm lại đây là một trong số các dấu hiệu "tôn giáo" phổ biếnlâu đời nhất của nhân loại. Ở Á Châu thì ký hiệu này đã từng được nhiều tôn giáo sử dụng, chẳng hạn như đạo Ja-in, Ấn Giáo và Phật Giáo. Ngày nay dấu hiệu này vẫn còn thấy nhan nhản khắp nơi, nhất là ở Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, v.v... Các "tôn giáo mới" chẳng hạn như đạo Cao Đài, Phá Luân Công... cũng sử dụng ký hiệu này.

 Theo Ấn Giáo thì chữ Vạn có hai ý nghĩa khác nhau tùy vào hướng quay của chữ này: quay sang phải thì mang ý nghĩa một sự thăng tiến (Pravitti), quay sang bên trái thì sẽ biểu trưng cho một sự hủy diệt (Nivriti). Thế nhưng việc xác định hướng quay cũng rất dễ bị lầm lẫn, thí dụ cùng một chữ Vạn thế nhưng nếu căn cứ vào góc nhọn hay vào đầu của mỗi nhánh của chữ Vạn để định hướng thì tất sẽ có hai hướng quay trái ngược nhau (xem H. 1 và 2).

 Tóm lại chữ Vạn xuất hiện khắp nơi và thuộc vào nhiều nền văn hóa và sắc tộc khác nhau, do đó ý nghĩa, cách hiểu và mục đích sử dụng của chữ này cũng rất phức tạp và đa dạng. Theo truyền thống thì chữ Vạn của Phật Giáo, nếu căn cứ vào đầu mỗi nhánh để định hướng thì sẽ quay theo hướng trái (xem hình trên ngực của pho tượng). Thiết nghĩ chỉ cần ghi nhớ quy ước này cũng đủ, ít ra là có thể nhờ đó để phân biệt chữ Vạn của Phật Giáo với chữ Vạn của Đức Quốc Xã, vì chữ Vạn của Đức Quốc Xã quay theo hướng phải.

 

vaighichu-02vaighichu-01vaighichu-03

 

 H.1 và 2: Cùng một chữ Vạn thế nhưng có hai cách giải thích khác nhau về chiều quay tùy theo cách định hướng căn cứ vào đầu hay vào góc nhọn của mỗi nhánh. Cách giải thích theo hình số 2 là cách thường thấy nhất và hướng quay là chiều bên phải, chữ vạn trên ngực pho tượng có hướng quay bên trái.

 H.3: Một số các kiểu chữ Vạn thuộc các truyền thống văn hóa, tín ngưỡng và địa phương khác nhau.

Các vị thần linh Vaisravana và Sambhala có đúng là các nhân vật biểu trưng bởi pho tượng hay không

 Trước nhất có lẽ cũng nên xác định xem pho tượng có đúng là một pho tượng Phật Giáo hay không. Có ba chi tiết chính mà trước nhất là về vầng hào quang trên đầu pho tượng. Phổ Diệu Kinh cho biết là sau khi đạt được Giác Ngộ thì trên đầu của thái tử Tất-đạt-đa hiện ra một vầng hào quang rạng rỡ. Kinh Trung A Hàm (Majjhima Nikaya, 26) kể rằng sau khi thành Phật thì Đức Phật đi đến thành Ka-thi (Kashi, ngày nay là Vanarasi hay Ba-la-nại) để tìm lại năm vị đồng tu trước đây. Trên đường có một vị sa-môn trẻ tuổi theo đạo Ja-in đi ngược chiều với Đức Phật và bỗng để ý thấy trên đầu Ngài toả ra một vầng hào quang thật sáng, bèn lấy làm lạ và hỏi Ngài là môn đệ của ai và tu tập theo Giáo Lý nào... Tóm lại vầng hào quang là một biểu hiệu đặc thù của Phật Giáo và cũng đã được tạc nơi đầu của các pho tượng Phật đầu tiên phát hiện vào thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch. Sau này các tượng ảnh biểu trưng cho các nhân vật của một vài tôn giáo khác cũng thấy có các vầng hào quang như thế và đấy cũng chỉ là một sự vay mượn của Phật Giáo. Chi tiết thứ hai là chữ Vạn khắc trên ngực của pho tượng cũng cho biết đấy là một pho tượng Phật Giáo. Chi tiết thứ ba là pho tượng đội một cái mũ tiêu biểu cho các vị đại sưthánh nhân Tây tạng, chi tiết này tất nhiên cho thấy đây là một pho tượng Tây Tạng. Thế nhưng pho tượng biểu trưng cho nhân vật nào trong Phật Giáo? Có đúng đấy là vị Vaisravana hay Jambhala như trong bản tin do báo chí nêu lên hay không?

 Vaisravana là tiếng Phạn, được dịch sang tiếng Hán là Đa Văn Thiên Vương, còn gọi là Bắc Phương Thiên Vương, tức là vị Hộ Pháp thứ nhất trong số Tứ Đại Thiên Vương, giữ vai trò trấn giữ phương Bắc.

 

vaighichu-041 vaighichu-052 vaighichu-063 vaighichu-074

H.1- Vaisravana Tây Tạng (Namthöse): ngồi trên lưng của một con sư tử tuyết (thế kỷ XV, bảo tàng viện Guimet, Paris)

H.2 - Vaisravana Trung Quốc (Đa Văn Thiên Vương / Duo Wen Tian Wang): tay phải cầm thương, tay trái cầm một bảo tháp. Các pho tượng thuộc vào loại này rất thường thấy ở các ngôi chùa Trung Quốc.

H.3 - Vaisrarana Nhật Bản (Damon-ten): (chùa Todai-ji, thế kỷ thứ VIII)

H.4 - Vaisravana Hàn Quốc (Damun Cheonwang): (chùa Pyochungsa, gần thị trấn Miryang)

 Vị Vaisravana còn được gọi là Jambhala hay Kubera (hai chữ này đều là tiếng Phạn), tiếng Tây tạngNamthöse, tiếng Nhật là Damon-ten, tiếng Hàn Quốc là Damun Choenwang, tiếng Thái là, Thao Kuwen). Khái niệm về Tứ Đại Thiên Vương khá phổ biến tại các quốc gia trên đây. Người Trung Quốc tạc tượng vị Vaisravana dưới hình tướng của một thần linh thật oai phong, mặc áo giáo, tay phải cầm một cây thương hay đinh ba, tay trái cầm một bảo tháp nhỏ tượng trưng cho trọng trách bảo vệ Đạo Pháp của mình. Tại các nước khác vị này được biểu trưng với một vài nét thay đổi nhỏ, thế nhưng tuyệt nhiên không có một vị nào giống với pho tượng tạc bằng thiên thạch vừa được khám phá ở Đức, nói một cách khác là pho tượng này không hội đủ các tiêu chuẩn cần thiết để xác định đấy là vị Vaisravana.

 Như vậy thì pho tượng mà người Đức đã đánh cắp của Tây Tạng vào năm 1938 biểu trưng cho nhân vật nào trong Phật Giáo? Chi tiết nổi bật nhất của pho tượng là đôi chân không tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền mà lại có vẻ như buông lơi: một chân gập lại và một chân buông thõng. Tiếng Phạn gọi tư thế này là bhadrasana, một tư thế sẵn sàng để đứng lên. Đấy là cách biểu trưng rất độc đáo cho Phật Di Lặc. Đôi khi các pho tượng Di Lặc cũng được trình bày ngồi trên ghế hay trên bục với hai chân buông thẳng, và các học giả Tây Phương thì thường gọi đấy là "cách ngồi của người Tây Phương" trên một chiếc ghế. Thật vậy, Phật Di Lặc là vị Phật tương lai luôn được tạc trong tư thế ngồi chờ với hai chân sẵn sàng đứng lên để cứu độ chúng sinh. Có rất ít các pho tượng Di Lặc được tạc trong tư thế đứng thẳng, chỉ có một vài pho tượng được tìm thấy trong vùng Gandhara (thế kỷ thứ II và III) thuộc Pakistan ngày nay, hoặc một số nhỏ các pho tượng Di Lặc Thái Lan là được tạc trong tư thế đứng thẳng. Cách tạc tượng biểu trưng cho một sự "chờ đợi" và đồng thời cũng "sẵn sàng" đứng lên này cũng là một sự sáng tạo độc đáo của nghệ thuật tạo hình Phật Giáo.

vaighichu-08

 

vaighichu-092 vaighichu-103

vaighichu-114 vaighichu-136 vaighichu-127

Vài hình ảnh Phật Di Lặc

(Các hình tượng Phật Di Lặc đều được tạc ngồi trên ghế hay trên bục với đôi chân buông thõng, hoặc một chân co một chân duỗi trong tư thế sẵn sàng đứng lên. Xin lưu ýPhật Di Lặc Trung Quốc trong các thời cận đại đã bị biến dạngtrở thành khá giống với một ông Thần Tài, xin xem hình 6 và 7. H.1- Phật Di Lặc Sarnath - Ấn Độ, thế kỷ thứ V; H.3- Phật Di Lặc Hàn Quốc; H.6- Phật Di Lặc Trung Quốc, hang Vân Cương, thế kỷ thứ V-VI; H.7- Phật Di Lặc tạc trong vách núi ở Feilai Feng, Hàng Châu)

 Tóm lại có thể kết luận rằng pho tượng bằng thiên thạch của Tây Tạng tạc vào thế kỷ XI là một pho tượng Di Lặc. Một số các chi tiết khác cũng củng cố thêm cho sự xác định này, chẳng hạn như vầng hào quang trên đầu và chữ Vạn trên ngực chỉ được sử dụng để biểu trưng cho các vị Phật và các vị Bồ-tát đắc đạo và không bao giờ được dùng để chỉ định các vị thần linh. Bàn tay phải của pho tượng được tạc để ngữa, đấy là cách biểu trưng cho sự bố thílòng từ bi, bàn tay trái thì cầm một cái bình đựng nước "cam lồ" dùng để cứu độ chúng sinh. Hai trọng trách này không thuộc vào bổn phận của các vị thần linh như Tứ Đại Thiên Vương chẳng hạn.

Một vài cảm nghĩ thay cho lời kết

 Theo truyền thuyết thì Đức Di Lặc chỉ là một vị Bồ-tát sắp thành Phật đang ngụ ở cung trời Đâu Suất (Tusita) chờ đúng lúc để nhập thế hầu cứu độ chúng sinh. Thế nhưng đến khi nào thì Phật Di Lặc sẽ hiện xuống thế gian này? Kinh sách không thống nhất về thời điểm ấy. Một số người cho rằng Phật Di Lặc sẽ hiện xuống địa cầu khoảng 30.000 năm sau khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni tịch diệt, một số khác thì lại nghĩ rằng phải chờ đến 3 tỉ 920 triệu năm. Con số này có thể là hơi phóng đại, bởi vì tuổi của địa cầu theo các nhà khoa học cho biết là 4,55 tỉ năm và con người ngày nay chỉ mới được hình thành khoảng hai triệu năm trở lại đây mà thôi. Vậy nhân loại có hội đủ "kiên nhẫn" để chờ đợi thêm … gần 4 tỉ năm nữa để có thể trông thấy Đức Phật Di Lặc hay không?

 Tất cả đều vô thường, mọi hiện tượng luôn chuyển động, trong một tương lai gần hay xa nhân loại rồi cũng sẽ không còn nữa, địa cầu này cũng sẽ bị tàn phá, tài nguyên sẽ kiệt quệ hay biết đâu cũng có thể sẽ nổ tung trước thời hạn quá dài trên đây? Cách suy nghĩ như thế thiết nghĩ cũng không đến đỗi nào quá yếm thế mà chỉ là một cảm nghĩ đối với hiện thực của một người hiểu được lời Phật dạy là gì.

 Các nhà khoa học cho rằng một khối thiên thạch vô cùng hiếm hoi đã rơi xuống địa cầu cách nay khoảng 10.000 đến 20.000 năm. Trên phương diện địa chất học thì quả thật hết sức khó để định tuổi chính xác một khối thiên thạch đã rơi xuống địa cầu vào lúc nào. Thế nhưng người ta có thể biết đích xác là khối thiên thạch ấy đã được tạc thành một pho tượng của Phật Di Lặc vào thế kỷ XI.

 Đức Đạt-lai Lạt-ma rời Tây tạng vào năm 1959 và đã nêu cao Đạo Pháp trên toàn thế giới. Pho tượng Di Lặc được tạc bằng thiên thạch, chân cao chân thấp đã từng ngồi chờ từ 1.000 năm nay ở một nơi nào đó trên đất Tây Tạng và đã không còn ngồi chờ thêm nữa mà lại vừa mới xuất hiện giữa xã hội loài người trong thế giới Tây Phương. Có phải đây là một biến cố mới đánh dấu một giai đoạn mới cho xứ Tây Tạng và mang lại một niềm hy vọng nào đó cho những người Phật Giáo nói chung hay không?

 

Hoang Phong

Bures-Sur-Yvette, 08.10.12

 

Xem bài viết liên quan:

MỘT PHO TƯỢNG PHẬT GIÁO BẰNG THIÊN THẠCH đã được khám phá từ năm 1938 - Hoang Phong biên soạn

 

(SÁCH CÙNG TÁC GIẢ/ DỊCH GIẢ)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11493)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
(Xem: 12661)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12276)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11058)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10929)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13384)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11807)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13691)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11925)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11190)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12238)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12430)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20623)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12456)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12473)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11741)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11615)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22452)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13601)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29727)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11566)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16774)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12027)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16871)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12094)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17948)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12678)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13197)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14794)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22661)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10609)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14082)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13895)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13744)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13883)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13963)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14849)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13880)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18442)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22832)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15418)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17344)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22432)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14282)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12611)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11211)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17785)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13225)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13130)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18829)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17202)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13544)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12942)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14718)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14688)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15899)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13538)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27461)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13270)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16746)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant