Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

07. Đoạn kết lễ dâng y Kathina

29 Tháng Mười 201200:00(Xem: 7089)
07. Đoạn kết lễ dâng y Kathina

LỄ DÂNG Y KATHINA

Tỳ khưu Hộ Pháp

ĐOẠN KẾT LỄ DÂNG Y KATHINA


Để thành tựu lễ thọ y kathina của chư Tăng, để chư Tỳ khưu được hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ thọ y kathina của chư Tăng cho đến ngày rằm tháng 2, trải qua nhiều giai đoạn:

Giai đoạn đầu: Thí chủ làm lễ dâng y kathina

Thí chủđức tin trong sạch nơi Tam Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, có tác ý thiện tâm làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng (không phải đến cá nhân).

Giai đoạn thứ nhì: Hành tăng sự làm lễ trao y kathina của chư Tăng đến vị Tỳ khưu.

Chư Tỳ khưu Tăng phải có đủ từ 5 vị trở lên, tụ họp tại sīmā, tuyển chọn một vị Tỳ khưu xứng đáng. Chư Tỳ khưu Tăng thỉnh vị Tỳ khưu luật sư tụng Ñattidutiyakammavācā xong, trao tấm y kathina cho vị Tỳ khưu mà chư Tỳ khưu đã tuyển chọn để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng.

Giai đoạn thứ ba: Lễ thọ y kathina của chư Tăng.

Vị Tỳ khưu thọ 1 trong 3 tấm y là tấm y saṃghāṭi hoặc tấm y uttarasaṅga hoặc tấm y antaravāsaka. Tấm y này gọi là tấm y kathina của chư Tăng. Sau khi thọ tấm y kathina của chư Tăng xong, vị Tỳ khưu ấy kính thỉnh tất cả chư Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina hợp pháp của chư Tăng.

Giai đọan thứ tư: Chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina.

Tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng xong, tất cả chư Tỳ khưu được hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ thọ y kathina của chư Tăng, cho đến ngày rằm tháng 2, hết hạn quả báu của lễ kathina.

Nếu vị Tỳ khưu nào không nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng, thì vị Tỳ khưu ấy không được hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ thọ y kathina.

Giai đoạn thứ năm: Phân chia y và vật dụng

Những thứ vật dụng cần thiết và những tấm y khác là quả báu phát sinh trong lễ dâng y kathina, được phân chia từ vị Đại Trưởng Lão cao hạ tuần tự xuống vị thấp hạ cho đến các vị Sadi, tất cả đều hưởng được quả báu phát sinh trong lễ dâng y kathina.

Vấn Đáp Về Lễ Dâng Y Kathina

Vấn: Trường hợp chỉ có 1 vị Tỳ khưu đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại một nơi, vị Tỳ khưu ấy có thể thọ nhận y kathina của thí chủ được hay không?

Đáp: Trong trường hợp chỉ có 1 vị Tỳ khưu đã an nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại một nơi, sau khi mãn hạ, vị Tỳ khưu ấy có thể thọ nhận y kathina của thí chủ được. Nhưng sau khi thọ nhận y kathina của thí chủ xong, ngay trong ngày hôm ấy, vị Tỳ khưu ấy nên đem tấm y kathina ấy đến một ngôi chùa có sīmā, thỉnh chư Tỳ khưu trong ngôi chùa ấy từ 4 vị Tỳ khưu trở lên, tụ họp tại sīmā để hành Tăng sự; thỉnh vị Tỳ khưu luật sư tụng Ñattidutiyakammavācā xong, trao tấm y kathina cho vị Tỳ khưu ấy. Vị Tỳ khưu ấy đem tấm y kathina trở về trong ngày hôm ấy, vị Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina đúng theo luật mà Đức Phật đã chế định. Sau khi làm lễ thọ y kathina xong, vị Tỳ khưu ấy được hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina, cho đến ngày rằm tháng 2, hết quả báu của kathina.

Như Đức Phật dạy trong Tạng Luật, bộ Mahāvagga rằng:

Idha pana bhikkhave bhikkhu eko vassaṃ vasati, tattha manussā ‘Saṃghassa demā’ ti cīvarāni denti. Anujānāmi bhikkhave, tasseva tāni cīvarāni yāva kathinassa ubbhārāya”.[35]

Ý nghĩa:

Này chư Tỳ khưu, trong nơi ấy, một Tỳ khưu đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa. Trong vùng ấy dân chúng làm lễ dâng y và bạch rằng: chúng con xin dâng những tấm y này đến chư Tăng.

Đức Phật dạy rằng:

“Này chư Tỳ khưu, Như Lai cho phép những tấm y ấy chỉ thuộc về Tỳ khưu ấy mà thôi, Tỳ khưu ấy được hưởng đặc ân 5 quả báu cho đến hết thời hạn quả báu của lễ kathina”.

Trong Chú giải dạy rằng:

Vị Tỳ khưu ấy mang tấm y kathina đến thỉnh chư Tỳ khưu Tăng từ 4 vị trở lên tụ họp hành Tăng sự tại sīmā, thỉnh vị Tỳ khưu luật sư tụng Ñattidutiyakammavācā xong rồi trao tấm y kathina cho vị Tỳ khưu ấy. Vị Tỳ khưu ấy trở về nơi mình đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa, Ngài làm lễ thọ y tấm y kathina xong, sẽ hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina cho đến ngày rằm tháng 2, hết quả báu của kathina.

Vấn: Trường hợp nếu có 2 vị Tỳ khưu, hoặc 3 vị Tỳ khưu, hoặc 4 vị Tỳ khưu đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa; chư Tỳ khưu ấy đã thọ nhận y kathina của thí chủ xong rồi, thì phải hành Tăng sự như thế nào?

Đáp: Hành Tăng sự lễ thọ y kathina, Đức Phật chế định chư Tỳ khưu có ít nhất 5 vị, còn nhiều không hạn định, hành Tăng sự như sau:

Nếu có 2 vị Tỳ khưu đã thọ nhận y kathina xong rồi, thì ngay trong ngày hôm ấy, cần phải thỉnh thêm ít nhất 3 vị Tỳ khưu từ ngôi chùa khác đến, để cho đầy đủ chư Tăng hành Tăng sự tụng Ñattidutiyakammavācā, trao tấm y kathina cho một vị Tỳ khưu nào xứng đáng để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng, còn 1 vị Tỳ khưu hành lễ nói lời hoan hỷ lễ thọ y kathina.

Nếu có 3 vị Tỳ khưu đã thọ nhận y kathina xong rồi, thì ngay trong ngày hôm ấy, cần phải thỉnh thêm ít nhất 2 vị Tỳ khưu từ ngôi chùa khác đến, để cho đầy đủ chư Tăng hành Tăng sự tụng Ñattidutiyakammavācā, trao tấm y kathina cho một vị Tỳ khưu nào xứng đáng để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng, còn 2 vị còn lại hành lễ đồng thanh nói lời hoan hỷ lễ thọ y kathina.

Nếu có 4 vị Tỳ khưu đã thọ nhận y kathina xong rồi, thì ngay trong ngày hôm ấy, cần phải thỉnh thêm ít nhất 1 vị Tỳ khưu từ ngôi chùa khác đến, để cho đầy đủ chư Tăng hành Tăng sự tụng Ñattidutiyakammavācā, trao tấm y kathina cho một vị Tỳ khưu nào xứng đáng để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng, còn 3 vị còn lại hành lễ đồng thanh nói lời hoan hỷ lễ thọ y kathina.

Những chư Tăng khách không có quyền nói lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng, và cũng không có quyền hưởng quả báu của kathina.

Chư Tỳ khưu và các Sadi cùng an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa, tại ngôi chùa ấy. Nếu có vị Sadi nào đủ 20 tuổi trong khi đang an cư nhập hạ, thì vị Sadi ấy được chư Tỳ khưu Tăng làm lễ nâng lên thọ Tỳ khưu, vị tân Tỳ khưu này có quyền hành lễ Pavāraṇā cùng với chư Tỳ khưu Tăng, và được phép tham dự hành lễ thọ y kathina của chư Tăng, cũng hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina như chư Tỳ khưu. Vị tân Tỳ khưu này có 1 hạ đầu tiên.

Vấn: Những hạng người nào có thể làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng được?

Đáp: Trong Chú giải Tạng Luật dạy rằng:

“Yena kenaci devena vā manussena vā pañcannaṃ vā sahadhammikānaṃ aññatrena dinnaṃ vaṭṭati”.[36]

Ý nghĩa:

Chư thiên hoặc phạm thiên hoặc nhân loại hoặc 5 pháp hữu đồng phạm hạnh đó là Tỳ khưu, hoặc Tỳ khưu ni, hoặc tu nữ tập sự (sikkhamānā), hoặc Sadi, hoặc Sadi ni. Hạng nào cũng có thể làm lễ dâng y kathina được.

Thật ra, điều kiện để thành tựu lễ thọ y kathina, để tất cả chư Tỳ khưu được hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ kathina cho đến ngày rằm tháng 2, hết thời hạn quả báu của kathina. Thí chủ làm lễ dâng 1 tấm y saṃghāṭi hoặc 1 tấm y uttarasaṅga hoặc 1 tấm y antaravāsaka, đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại một ngôi chùa hoặc một nơi thanh vắng trong rừng núi, hay hang động nào đó. Tất cả chư Tỳ khưu Tăng tuyển chọn một vị Tỳ khưu hiểu biết rõ 8 chi pháp xứng đáng, để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng xong, chư Tỳ khưu Tăng còn lại đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng, thì tất cả chư Tỳ khưu được hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ kathina của chư Tăng cho đến ngày rằm tháng 2, hết hạn quả báu của kathina.

Nếu thí chủđức tin trong sạch nơi Tam Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, có tác ý thiện tâm làm lễ dâng chỉ có 1 tấm y trong tam y gọi là y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng, thì chỉ có 1 vị Tỳ khưu được chư Tỳ khưu Tăng tuyển chọn làm lễ thọ y kathina của chư Tăng bằng 1 tấm y ấy, còn lại các vị Tỳ khưu khác đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng thì được hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ thọ y kathina trong thời vị lai cho đến ngày rằm tháng 2. Trong buổi lễ dâng y kathina này, ngoại trừ vị Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina ra, còn lại các vị Tỳ khưu khác chưa hưởng được tấm y quả báu phát sinh trong buổi lễ dâng y kathina đến chư Tăng.

Nếu thí chủđức tin trong sạch nơi Tam Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, có tác ý thiện tâm làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại ngôi chùa ấy, ngoài 1 tấm y kathina ra, còn cúng dâng nhiều tấm y, nhiều thứ vật dụng cần thiết khác. Cho nên, sau khi một vị Tỳ khưu đã làm lễ thọ y kathina của chư Tăng, tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng, thì tất cả chư Tỳ khưu Tăng không những hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ thọ y kathina của chư Tăng, trong thời vị lai cho đến ngày rằm tháng 2; mà còn ngay hiện tại, trong buổi lễ dâng y kathina này, tất cả chư Tỳ khưu Tăng đều có hưởng được phần quả báu phát sinh trong buổi lễ dâng y kathina này đó là tấm y và các thứ vật dụng cần thiết khác,... thì tất cả chư Tỳ khưu được thuận lợi trong sự duy trì sinh mạng, để lo phận sự học pháp học Phật giáo, hành pháp hành Phật giáo, hầu mong duy trì Phật giáo được trường tồn lâu dài trên thế gian, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài đến tất cả chúng sinh nhất là chư thiênnhân loại.

“Sādhu! Sādhu! Anumodāma”.
“Lành thay! Lành thay! Chúng tôi xin hoan hỷ!”

“Icchitaṃ patthitaṃ amhaṃ,
Khippameva samajjhatu”

“Điều mong ước, ý nguyện của chúng con,
Cầu mong sớm được thành tựu như ý”

Mùa an cư nhập hạ Pl. 2549
Núi rừng Viên Không,
Xã Tóc Tiên, huyện Tân Thành,
Tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

Tỳ khưu Hộ Pháp
(Dhammarakkhita Bhikkhu)

-ooOoo-


[1] Tạng luật Thái gọi xứ Patheyya. Nhóm 30 vị tỳ khưu xứ Pāveyya đều là bậc Thánh Hữu Học (bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai và bậc Thánh Bất Lai) vốn là 30 Hoàng tử huynh đệ cùng phụ hoàng với Đức vua Pasenadi Kosala.

[2] Một do tuần khoảng 20 cây số.

[3] Xứ Ấn Độ mỗi năm có 3 mùa: Mùa mưa, mùa lạnh và mùa nóng; mỗi mùa có 4 tháng.

[4] Tạng Luật, bộ Mahāvagga, phần Kathinakkhandhaka.

[5] Chú giải Tạng Luật, bộ Mahāvagga, Kathinakkhandhaka.

[6] Chú giải Tạng Luật, bộ Mahāvagga, Kathinakkhandhaka.

[7] Muparipaṇṇasa, kinh Dakkhināvibhaṅgasutta.

[8] Muparipaṇṇasa, kinh Dakkhināvibhaṅgasutta.

[9] Bộ Apadāna, Buddhāpadāna pubbakammapiloti.

[10] Bộ Jātaka, phỏng theo tích Ummānandījātaka.

[11] Bộ Chú giải Dhammapadaṭṭhakathā, sự tích Cūḷekasāṭaka-brahmaṇavatthu.

[12] Dhammapadagāthā số 116.

[13] Bộ Apādāna, sự tích Pilindavacchatherāpādāna.

[14] Tipiṭakapakiṇṇakadīpanī.

[15] Soḷasiṃ còn có nghĩa 1 phần 256.

[16] Aṅguttaranikāya, phần 5 chi, kinh Sappurisadānasutta.

[17] Tên chỗ ở mà chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ.

[18] Tên ngôi chùa đang làm lễ. Ở đây ví dụ núi rừng Viên Không “Viên Không araññe”, hoặc Tổ đình Bửu Long thì đọc “Bửu Long ārāme”

[19] Tên ngôi chùa đang làm lễ. Ở đây ví dụ núi rừng Viên Không, hoặc tại Tổ đình Bửu Long.

[20] Hatthapāda là khoảng cách từ người thí chủ đến chỗ ngồi của vị Đại đức 2 cùi tay và 1 gang, khoảng 1 mét.

[21] Chú ý: Để buổi lễ thọ y kathina được thành tựu, tấm y kathina mà thí chủ chưa kính dâng đến tận tay của vị Đại Trưởng Lão. Tỳ khưu không được đụng chạm đến tấm y kathina ấy và cũng không được phép dời tấm y kathina ấy sang chỗ khác. Nếu vị Tỳ khưu nào có tác ý đụng chạm đến tấm y kathina ấy, vị Tỳ khưu ấy bị phạm giới (durupaciṇṇadukkaṭa). Và nếu vị Tỳ khưu nào có tác ý dời tấm y kathina sang chỗ khác, vị tỳ khưu ấy bị phạm giới (uggahitakadukkaṭa) tấm y kathina ấy không hợp theo luật. Dù thí chủ dâng tấm y kathina ấy đến chư Tỳ khưu tăng, nhưng vị Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina của chư Tăng không thành tựu, bởi vì tấm y kathina không còn hợp theo luật. (căn cứ theo điều giới Dantaponasikkhāpada).

[22] Chú giải Tạng Luật, bộ Mahāvagga, phần Kathinakkhandha.

[23] Chú giải Tạng Luật, bộ Mahāvagga, phần Kathinakkhandha.

[24] Vinayapiṭaka, bộ Parivāra, phần Pubbakaraṇanidānādivibhāga.

[25] Vinayapiṭaka, Bhikkhunīvibhaṅga, dasamasikkhapāda.

[26] Bhikkhupātimokkha, phần Pācittiya, điều giới thứ 46.

[27] Bhikkhupātimokkha, phần nisaggiya pācittiya, điều giới thứ 2.

[28] Bhikkhupātimokkha, phần Pācittiya, điều giới thứ 32.

[29] Bhikkhupātimokkha, phần nisaggiya pācittiya, điều giới số 1.

[30] Vinayapitaka, bộ Cūlavagga, phần Sangitinidāna.

[31] Tên thí chủ chính của lễ dâng y kathina.

[32] Tên vị Đại Đức được giới thiệu để thọ y kathina, ví dụ: Đại Đức Tissa.

[33] Kathinacīvaram: Y đã may sẵn để làm lễ thọ kathina. Kathinadussa: Vải để may y làm lễ thọ kathina.

[34] Gahapaticīvara là y có chủ, còn paṃsukūlacīvara là y may bằng các tấm vải dơ, những tấm vải này không có chủ. Khi biết rõ những tấm vải này không có chủ vị Tỳ khưu tự mình có thể lượm những tấm vải ấy đem về giặt cho sạch sẽ, rồi may thành y mặc, mà không cần có thí chủ dâng tận tay đúng theo luật.

[35] Vinayapiṭaka, Bộ Mahāvagga, phần Cīvarakkhandhaka.

[36] Chú giải Tạng Luật, Chú giải bộ Mahāvagga, phần Kathinakkhandhaka.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4940)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5582)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5710)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5890)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 5079)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4489)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4793)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4798)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5954)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3382)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5373)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 3030)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4257)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5364)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4352)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3419)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6466)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5457)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4701)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6346)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 6198)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3995)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 6126)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4725)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4856)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3492)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6369)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 5063)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3641)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3581)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5815)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4367)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 6099)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5334)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3764)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3877)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3807)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3610)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5477)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 4142)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4503)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5913)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3218)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3172)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3999)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4974)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3659)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 3127)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4662)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4860)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3553)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 4093)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4832)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3680)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3684)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5227)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4261)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3377)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 3061)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 3126)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant