Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

08. Quy Y Tam Bảo Vững Chắc và Không Vững Chắc

01 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 6452)
08. Quy Y Tam Bảo Vững Chắc và Không Vững Chắc

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển II:
Quy Y Tam Bảo
(TISARANA)


CHƯƠNG IV: QUY Y TAM BẢO (TISARAṆA)


QUY Y TAM BẢO VỮNG CHẮC - KHÔNG VỮNG CHẮC

Phép quy y Tam Bảo vững chắc

Đối với chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật đã thành tựu phép quy y Tam Bảo theo pháp Siêu tam giới (Lokuttarasaraagamana). Trong kiếp hiện tại, chư Thánh Thanh Văn ấy là người cận sự nam, cận sự nữđức tin trong sạch vững chắc nơi Tam Bảo, không hề lay chuyển; chỉ có nhất tâm thành kính quy y Tam Bảo cho đến trọn đời trọn kiếp mà thôi, không bao giờ từ bỏ Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng; bởi vì trong tâm của chư Thánh Nhân không có phiền não nào có thể làm ô nhiễm phép quy y Tam Bảo. Do đó, trong kiếp hiện tại chư Thánh Nhâncận sự nam, cận sự nữ không bao giờ bị đứt phép quy y Tam Bảo.

Những người cận sự nam, cận sự nữ là bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Bất Lai, sau khi chết chắc chắn không thể tái sinh trong 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh) mà chỉ có thiện nghiệp cho quả tái sinh làm người, hoặc làm chư thiên trong 6 cõi trời dục giới hoặc làm phạm thiên trong cõi trời sắc giới, vô sắc giới tùy theo năng lực của thiện nghiệp cho quả.

Những kiếp sau của bậc Thánh Nhân ấy vẫn còn nguyên vẹn phép quy y Tam Bảo theo pháp Siêu tam giới vững chắc, khắng khít ở trong tâm, trong mọi kiếp cho đến khi trở thành bậc Thánh Arahán tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong tam giới.

Phép quy y Tam Bảo không vững chắc

Đối với các hạng phàm nhân đã thành tựu phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giới (lokiyasaraagamana). Trong kiếp sống hiện tại, người cận sự nam, cận sự nữ ấy có hai nhóm:

- Số người cận sự nam, cận sự nữ đã thọ phép quy y Tam Bảo xong rồi, chỉ có nhất tâm giữ gìn duy trì phép quy y Tam Bảo trọn vẹn đến trọn đời trọn kiếp mà thôi; cho đến khi chết, đồng thời cũng là lúc đứt phép quy y Tam Bảo. Bởi vì, phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giới chỉ có hiệu lực trong kiếp hiện tại mà thôi, do đó trường hợp đứt phép quy y Tam Bảo này vô tội (anavajja).

Sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả tái sinh trong cõi thiện giới (cõi người, cõi trời dục giới...) nào, kiếp sau làm người hoặc chư thiên, hoặc phạm thiên có gặp được Phật giáo hay không, điều đó không chắc chắn. Cho nên, trong kiếp hiện tại, người cận sự nam, cận sự nữ phải luôn phát nguyện rằng: “Do năng lực phước thiện này, kiếp vị lai gặp được Đức Phật, hoặc các hàng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, được nghe chánh pháp của Đức Phật, hết lòng thành kính xin quy y Tam Bảo”.

- Số người cận sự nam, cận sự nữ đã thọ phép quy y Tam Bảo xong rồi, trong kiếp sống còn hiện tại, do năng lực phiền não xui khiến họ từ bỏ Đức Phật, từ bỏ Đức Pháp, từ bỏ Đức Tăng, để theo nương nhờ nơi đạo khác. Như vậy, người ấy bị đứt phép quy y Tam Bảo ngay khi đó, không phải chờ đến lúc chết.

Đó là trường hợp đứt phép quy y Tam Bảo mà có tội (sāvajja).

Như vậy, phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giới đối với các cận sự nam, cận sự nữ còn là phàm nhân, là phép quy y Tam Bảo không vững chắc.

Nhân làm ô nhiễm phép quy y Tam Bảo

Người cận sự nam, cận sự nữ còn là hạng phàm nhân, có đức tin nơi Tam Bảo không vững chắc, bởi vì họ vẫn còn có những phiền não nặng nề làm ô nhiễm trong tâm. Những phiền não là nhân làm ô nhiễm phép quy y Tam Bảo như:

- Phiền não si (moha): Tâm si không hiểu rõ 9 Ân đức Phật, 6 Ân đức Pháp, 9 Ân đức Tăng. Đó là nhân làm ô nhiễm phép quy y Phật Bảo, quy y Pháp Bảo, quy y Tăng Bảo.

- Phiền não hoài nghi (vicikicchā): Tâm hoài nghi về Đức Phật, hoài nghi về 9 Ân đức Phật; hoài nghi về Đức Pháp, hoài nghi về 6 Ân đức Pháp; hoài nghi về Đức Tăng, hoài nghi về 9 Ân đức Tăng. Đó là nhân làm ô nhiễm phép quy y Phật Bảo, quy y Pháp Bảo, quy y Tăng Bảo.

- Phiền não tà kiến (michādiṭṭhi): Tâm tà kiến thấy sai, hiểu lầm, chấp lầm về Đức Phật, về 9 Ân đức Phật; tâm tà kiến thấy sai, hiểu lầm, chấp lầm về Đức Pháp, về 6 Ân đức Pháp; tâm tà kiến thấy sai, hiểu lầm, chấp lầm về Đức Tăng, về 9 Ân đức Tăng. Đó là nhân làm ô nhiễm phép quy y Phật Bảo, quy y Pháp Bảo, quy y Tăng Bảo.

Phiền não ấy phát sinh trong những trường hợp

Trong khi đang thọ phép quy y Tam Bảo, nếu hạng phàm nhân có những loại phiền não si mê, hoài nghi, tà kiến ấy phát sinh, thì người ấy không thành tựu phép quy y Tam Bảo, cũng không chính thức trở thành người cận sự nam hoặc cận sự nữ trong giáo pháp của Đức Phật Gotama.

Hạng phàm nhân nào chỉ có đức tin nơi Tam Bảo, mà không có trí tuệ hiểu rõ 9 Ân đức Phật, 6 Ân đức Pháp, 9 Ân đức Tăng, cho nên, trong khi người ấy đang thọ phép quy y Tam Bảo, với dục giới đại thiện tâm không hợp với trí tuệ, tuy có đối tượng Ân đức Tam Bảo, nhưng không hiểu rõ sâu sắc 9 Ân đức Phật, 6 Ân đức Pháp, 9 Ân đức Tăng; người ấy cũng thành tựu được phép quy y Tam Bảo không hợp với trí tuệ, cũng trở thành người cận sự nam hoặc cận sự nữ trong giáo pháp của Đức Phật Gotama. Tuy nhiên, về sau nếu người cận sự nam hoặc cận sự nữ này có những phiền não phát sinh ở trong tâm sẽ là nhân làm ô nhiễm phép quy y Tam Bảo của người ấy.

Nhân làm trong sạch phép quy y Tam Bảo

Người cận sự nam, cận sự nữ là hạng phàm nhân đã thọ phép quy y Tam Bảo xong rồi, về sau do phiền não si mê, hoài nghi, tà kiến làm ô nhiễm phép quy y Tam Bảo của họ. Nhờ có bạn lành, bạn tốt là bậc thiện trí khuyên nhủ, chỉ bảo, người ấy ý thức được rằng: Phiền não làm ô nhiễm phép quy y Tam Bảo, đó là điều bất lợi, thoái hóa mọi thiện pháp, khổ não.

Người ấy tìm đến bậc thiện trígiới đức thanh tịnh, tinh thông pháp học, giàu kinh nghiệm về pháp hành,... thỉnh Ngài thuyết giảng Ân đức Tam Bảo, quả báu của phép quy y Tam Bảo. Người ấy lắng nghe chánh pháp của bậc thiện trí, hiểu rõ về 9 Ân đức Phật, 6 Ân đức Pháp, 9 Ân đức Tăng,... đó là những pháp làm cho dễ phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, có trí tuệ nhận thức đúng đắn rằng: “Đức Phật cao thượng, Đức Pháp cao thượng, Đức Tăng cao thượng”, được quy y nương nhờ nơi Đức Phật Bảo, Đức Pháp Bảo, Đức Tăng Bảo là nương nhờ nơi cao thượng, sẽ có được quả báu cao thượng, sẽ có được sự lợi ích cao thượng, sự tiến hóa trong mọi thiện pháp cao thượng, sự an lạc Niết Bàn cao thượng.

Trước kia, người cận sự nam, cận sự nữ có phép quy y Tam Bảo bị ô nhiễm do bởi phiền não. Nay, người ấy đến gần gũi thân cận với bậc thiện trí, lắng nghe chánh pháp của bậc thiện trí, hiểu rõ Ân đức Tam Bảo,... phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, có trí tuệ sáng suốt hiểu biết các pháp. Do đó, làm cho phép quy y Tam Bảo của họ không còn bị ô nhiễm bởi phiền não nữa; phép quy y Tam Bảo của họ trở nên xán lạn, càng tăng trưởng đức tin nơi Tam Bảo.

Quy y Tam Bảo với đức tin trong sạch

Trong bài kinh Kāraapālisutta được tóm lược như sau:

Ông Bàlamôn Kāraapālivị quan trông coi công việc trong hoàng tộc Licchavi xứ Vesāli và ông Bàlamôn Pigiyāni là bậc Thánh Bất Lai Thanh Văn đệ tử của Đức Phật. Hai người gặp và đàm thoại với nhau, ông Bàlamôn Pigiyāni tán dương ca tụng chánh pháp của Đức Phật.

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại tịnh xá trong khu rừng lớn gần thành Vesāli. Khi ấy, có ông Bàlamôn Kāraapāli đi trông coi công việc bên ngoài cửa thành, nhìn thấy ông Bàlamôn Pigigāni từ xa đến bèn hỏi rằng:

: Thưa ông Pigiyāni, ông đi đâu trở về trưa vậy?

Pi:Thưa ông Kāraapāli, tôi đến hầu Đức Phật Gotama trở về.

: Thưa ông Pigiyāni, ông biết trí tuệ của Samôn Gotama là Bậc đại trí cao thượng có phải không?

Pi: Thưa ông Kāraapāli, tôi chỉ là người tầm thường làm sao biết được trí tuệ của Đức Phật Gotama; bậc nào biết được trí tuệ của Đức Phật Gotama, chắc chắn bậc ấy phải là Đức Phật như Đức Phật Gotama.

Kā: Thưa ông Pigiyāni, tôi nghe nói rằng, ông thường tán dương ca tụng Samôn Gotama lắm phải không?

Pi: Thưa ông Kāraapāli, tôi chỉ là người tầm thường, có biết gì về Đức Phật Gotama mà dám tán dương ca tụng Ngài, chỉ có chư thiên, chư phạm thiên, các bậc thiện trí thường tán dương ca tụng Đức Phật Gotama là Bậc Tối Thượng trong tất cả mọi chúng sinh, chư thiên, chư phạm thiên, chư Samôn, Bàlamôn và toàn nhân loại.

Kā: Thưa ông Pigiyāni, ông đã nhận thấy sự lợi ích thế nào mà ông có đức tin trong sạch nơi Samôn Gotama đến như thế ấy?

Pi: Thưa ông Kāraapāli, ví như một người đã ăn uống no đủ những món vật thực ngon lành có hương vị hảo hạng rồi; thì người ấy không còn thèm muốn những món vật thực dở, như thế nào. Cũng như vậy, người nào đã lắng nghe chánh pháp của Đức Phật Gotama như bài kinh, câu kệ, bài văn xuôi hoặc những pháp phi thường chưa từng có rồi, người ấy không còn muốn nghe lời dạy của Samôn, Bàlamôn khác, cũng như thế ấy.

Cũng ví như người đang đói khát, mệt lả, gặp một tổ ong mật đầy, người ấy uống mật ong nguyên chất không pha trộn thứ khác, như thế nào. Cũng như vậy, người nào đã lắng nghe chánh pháp của Đức Phật Gotama như bài kinh, câu kệ, bài văn xuôi, hoặc những pháp phi thường chưa từng có rồi, người ấy phát sinh tâm hỷ lạc, có đức tin trong sạch nơi Đức Phật Gotama, cũng như thế ấy.

Cũng ví như người đi tìm được cây trầm vàng hoặc cây trầm đỏ, người ấy ngửi rễ trầm, thân cây trầm, ngọn cây trầm cảm thấy mùi thơm tho, mát dịu, dễ chịu như thế nào. Cũng như vậy, người nào đã lắng nghe chánh pháp của Đức Phật Gotama như bài kinh, câu kệ, bài văn xuôi hoặc những pháp phi thường chưa từng có rồi, người ấy cảm thấy hài lòng tâm vô cùng hoan hỷ, cũng như thế ấy.

 Cũng ví như người mắc phải bệnh trầm kha lâu năm đau khổ, nhưng diễm phúc gặp được vị lương y tài giỏi điều trị khỏi căn bệnh ấy, người ấy sống được an lạc, như thế nào. Cũng như vậy, người nào đã lắng nghe chánh pháp của Đức Phật Gotama như bài kinh, câu kệ, bài văn xuôi hoặc những pháp phi thường chưa từng có từ trước rồi, người ấy diệt khỏi được sự sầu não, khóc than, khổ tâm, khổ thân, sự thống khổ cùng cực, cũng như thế ấy.

Cũng ví như một hồ nước trong trẻo, sạch sẽ, mát mẻ, bến nước lài thoai thoải, cảnh đẹp nên thơ; một người đi đường xa, trời nắng, mệt mỏi, khát nước, đi lần đến hồ nước ấy, xuống hồ uống nước, tắm rửa sạch sẽ, hết khát, hết mệt, diệt được sự nóng nảy, như thế nào. Cũng như vậy, người nào đã lắng nghe chánh pháp của Đức Phật Gotama như bài kinh, câu kệ, bài văn xuôi hoặc những pháp phi thường chưa từng có từ trước rồi, người ấy cảm thấy diệt được phiền não nóng nảy trong tâm, tâm được thanh tịnh vắng lặng, cũng như thế ấy...

Lắng nghe ông Bàlamôn Pigiyāni thuyết giảng sự lợi ích chánh pháp của Đức Phật Gotama, ông Bàlamôn Kāraapāli đứng dậy mặc áo chừa vai bên phải, quỳ xuống đất chắp hai tay hướng về Đức Thế Tôn đang ngự, thốt lên lời tôn kính 3 lần:

Namo Tassa Bhagavato Arahato Samāsambuddhassa. (3 lần)

Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, Đức Arahán, Đức Chánh Đẳng Giác. (3 lần)

Ông ca tụng ông Bàlamôn Pigiyāni rằng:

- Thưa ông Pigiyāni, lời giảng giải của ông thật rõ ràng quá, làm tôi vô cùng hoan hỷ. Ông đã giảng giải bằng nhiều phương pháp khác nhau, ví như lật ngửa ra vật bị che đậy, hoặc mở ra vật bị đóng chặt, hoặc chỉ đường cho người lạc đường, hoặc rọi đèn soi sáng vào nơi tăm tối để cho người có đôi mắt sáng được thấy rõ mọi vật hiện hữu.

Tiếp theo ông Bàlamôn Kāraapāli xin thọ phép quy y Tam Bảo bằng lời chân thật rằng:

“Esāha Bho Pigiyāni ta Bhagavanta Gotama saraa gacchāmi, dhammañca bhikkhusaghañca, upāsakam ma bhava Pigiyāni dhāretu, ajjatagge pāupeta saraa gata”.

- Kính thưa ông Pigiyāni, xin ông chứng nhận lời chân thật của tôi rằng: “Con thành kính xin quy y Đức Thế Tôn Gotama, xin quy y Đức Pháp Bảo, xin quy y Đức Tỳ-khưu Tăng Bảo”.

Kính xin ông Pigiyāni công nhận tôi là người cận sự nam đã quy y Tam Bảo cao thượng, kể từ hôm nay cho đến trọn đời.

Quả báu của phép quy y Tam Bảongũ giới

Quả báu của phép quy y Tam Bảongũ giới rất phi thường, thật vô cùng phong phú. Những người thọ phép quy y Tam Bảongũ giới trước khi lâm chung, sau khi chết, do cận tử thiện nghiệp (āsannakusalakamma) cho quả tái sinh lên cõi trời Tam Thập Tam Thiên.

Như tích chuyện Satullapakāyikā trong Chú giải Devatāsamyutta (chương chư thiên), kinh Sabbhisutta được tóm lược như sau:

Một chiếc thuyền buôn có số đông thương gia trên thuyền, chiếc thuyền lướt gió ra biển khơi đến ngày thứ bảy, gặp sóng to gió lớn, thuyền bị hư, nước tràn vào thuyền sắp chìm giữa biển khơi.

Mọi người trên thuyền đều sợ hãi, cầu khẩn chư thiên hộ trì, khóc than van vái. Trong số người đó, có một người cận sự nam thấy tai họa chết sắp đến, người ấy ngồi niệm tưởng đến pháp mà mình đã thọ trì, đó là phép quy y Tam Bảongũ giới trong sạch của mình, rồi ngồi kiết già an nhiên tự tại, như một hành giả, không hề tỏ vẻ sợ hãi chút nào.

Mọi người đến hỏi:

- Này ông, do nguyên nhân nào mà ông không sợ hãi?

Người ấy thưa rằng:

- Thưa quý ông, tôi không sợ hãi, bởi vì trước ngày tôi đi xuống thuyền; tôi có đến hầu chư Tỳ-khưu Tăng làm phước thiện bố thí đến quý Ngài, đã thọ phép quy y Tam Bảongũ giới trong sạch. Tôi có quy y Tam Bảo và có ngũ giới trong sạch, để làm nơi nương nhờ của tôi, do đó, tôi không sợ hãi.

Mọi người thưa rằng:

- Kính thưa ngài, phép quy y Tam Bảongũ giới ấy, bây giờ chúng tôi có thể thọ trì được hay không?

- Tốt lành lắm! Phép quy y Tam Bảongũ giới này, mọi người đều nên thọ trì, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài.

Mọi người thưa:

- Kính thưa Ngài, như vậy, xin Ngài hướng dẫn chúng tôi thọ phép quy y Tam Bảongũ giới.

Người cận sự nam thiện trí ấy chia mọi người ra thành 7 nhóm, mỗi nhóm 100 người:

- Đầu tiên, người cận sự nam thiện trí hướng dẫn nhóm thứ nhất, phép quy y Tam Bảongũ giới; nhóm thứ nhất thọ phép quy y Tam Bảongũ giới xong, thì nước ngập đến mắt cá.

- Tiếp tục, nhóm thứ nhì thọ phép quy y Tam Bảongũ giới xong, thì nước ngập đến đầu gối.

- Nhóm thứ ba thọ phép quy y Tam Bảongũ giới xong, thì nước ngập đến mông.

- Nhóm thứ tư thọ phép quy y Tam Bảongũ giới xong, thì nước ngập đến lỗ rún.

- Nhóm thứ năm thọ phép quy y Tam Bảongũ giới xong, thì nước ngập đến ngực.

- Nhóm thứ sáu thọ phép quy y Tam Bảongũ giới xong, thì nước ngập gần đến cổ.

- Nhóm thứ bảy thọ phép quy y Tam Bảongũ giới xong, thì nước ngập gần đến miệng.

Sau khi hướng dẫn phép quy y Tam Bảongũ giới cho 7 nhóm gồm có 700 người xong rồi, người cận sự nam thiện trí khuyên dạy rằng:

- Này quý vị, xin quý vị nương nhờ nơi Tam Bảongũ giới của mình, ngoài ra, không nương nhờ nơi nào khác.

Sau đó, chiếc thuyền bị chìm đắm, tất cả mọi người trên thuyền đều bị chết cả thảy. Sau khi chết, do nhờ phước thiện thọ phép quy y Tam Bảongũ giới, đó là cận tử thiện nghiệp (āsannakusalakamma) cho quả tái sinh lên cõi trời Tam Thập Tam Thiên, trở thành chư thiên nam, mỗi vị có một lâu đài nguy nga tráng lệ. Trong số những lâu đài ấy, lâu đài của vị Thầy nằm ở trung tâm cao 100 do tuần, còn 700 lâu đài của 700 vị thiên nam đệ tử xung quanh, mỗi lâu đài cao 12 do tuần.

Nhóm chư thiên ấy quán xét rằng: Do thiện nghiệp nào của mình, mà cho quả tái sinh lên cõi trời này, có được quả báu tốt lành đáng hài lòng như thế này?

Nhóm chư thiên ấy thấy rõ biết rõ rằng: Chúng ta có được quả báu tốt lành đáng hài lòng này là do nương nhờ vị Thầy của chúng ta, hướng dẫn phép quy y Tam Bảongũ giới.

Vậy, chúng ta mời vị Thầy cùng hiện xuống cõi người đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, đồng thời tán dương ca tụng Ân đức Thầy trước sự hiện diện của Đức Thế Tôn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn đang ngự tại ngôi chùa Jetavana của ông phú hộ Anāthapiṇḍika, gần kinh thành Sāvatthi.

Vào canh giữa, nhóm chư thiên hiện xuống, hào quang sáng ngời khắp cả ngôi chùa Jetavana. Nhóm chư thiên đảnh lễ Đức Thế Tôn xong, đứng một nơi hợp lẽ.

Một vị thiên nam tán dương ca tụng Ân đức Thầy rằng:

Kính bạch Đức Thế Tôn,
Người nên thân cận với bậc thiện trí
Nên làm bạn thân với bậc thiện trí
Để nghe biết pháp của bậc thiện trí
Là người cao thượng, không phải thấp hèn
.

Vị thiên nam khác tán dương ca tụng Ân đức Thầy rằng:

Kính bạch Đức Thế Tôn,
Người nên thân cận với bậc thiện trí
Nên làm bạn thân với bậc thiện trí
Để nghe biết pháp của bậc thiện trí
Có được trí tuệ từ bậc thiện trí
Không phải có từ hạng người si mê
.

Vị thiên nam khác tán dương ca tụng Ân đức Thầy rằng:

Kính bạch Đức Thế Tôn,
Người nên thân cận với bậc thiện trí
Nên làm bạn thân với bậc thiện trí
Để nghe biết pháp của bậc thiện trí
Không sầu não giữa đám người sầu não
.

Vị thiên nam khác tán dương ca tụng Ân đức Thầy rằng:

Kính bạch Đức Thế Tôn,
Người nên thân cận với bậc thiện trí
Nên làm bạn thân với bậc thiện trí
Để nghe biết pháp của bậc thiện trí
Được vinh hiển giữa các hàng thân quyến.

Vị thiên nam khác tán dương ca tụng Ân đức Thầy rằng:

Kính bạch Đức Thế Tôn,
Người nên thân cận với bậc thiện trí
Nên làm bạn thân với bậc thiện trí
Để nghe biết pháp của bậc thiện trí
Những chúng sinh ấy sẽ đến cõi trời
.

Vị thiên nam khác tán dương ca tụng Ân đức Thầy rằng:

Kính bạch Đức Thế Tôn,
Người nên thân cận với bậc thiện trí
Nên làm bạn thân với bậc thiện trí
Để nghe biết pháp của bậc thiện trí
Những chúng sinh ấy thường được an lạc
.

Một vị thiên nam bạch với Đức Thế Tôn rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, những lời lẽ ấy, lời vị thiên nam nào gọi là thiện ngôn.

Đức Thế Tôn tuyên dạy rằng:

- Này chư thiên, những lời của các con đều là lời thiện ngôn (subhāsita). Nay, các con lắng nghe lời của Như Lai.

Này chư thiên,
Người nên thân cận với bậc thiện trí
Nên làm bạn thân với bậc thiện trí
Để nghe biết pháp của bậc thiện trí
Người ấy được giải thoát mọi cảnh khổ
Tử sinh luân hồi trong tam giới này.

Nhóm chư thiên vô cùng hoan hỷ với lời giáo huấn của Đức Thế Tôn, đảnh lễ Ngài rồi xin phép trở về cõi trời Tam Thập Tam Thiên, an hưởng mọi sự an lạc nơi cõi ấy.

* Điều nhận xét:

Sáu vị thiên nam, trong mỗi câu kệ tán dương ca tụng Ân đức Thầy của mình đều có câu:

Satam saddhammamaññāya”.

(Để nghe biết pháp của bậc thiện trí).

Danh từ Saddhamma: Chánh pháp trong 6 câu kệ chỉ đề cập đến ngũ giới, hoặc phép quy y Tam Bảongũ giới mà thôi. Bởi vì, các vị thiên nam chỉ có trình độ hiểu biết được quả báu an lạc mà quý vị chư thiên đang thọ hưởng trong cõi trời Tam Thập Tam Thiên, đó là quả báu của thiện nghiệp phép quy y Tam Bảongũ giới từ vị Thầy của mình.

Trong câu kệ của Đức Phật có câu:

Satam saddhammamaññāya

(Để nghe biết pháp của bậc thiện trí)

Danh từ Saddhamma: Chánh phápĐức Phật truyền dạy trong câu kệ không chỉ ngũ giới, hoặc phép quy y Tam Bảongũ giới, mà còn có bát giới, cửu giới, thập giới, 227 giới của Tỳ-khưu; pháp hành thiền định, chứng đắc 4 bậc thiền hữu sắc, 4 bậc thiền vô sắc; pháp hành thiền tuệ, 37 pháp để chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn.

Cho nên, câu cuối của bài kệ Đức Phật:

Sabbadukkhā pamuccati

(Người ấy được giải thoát mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13538)
Nghiệp báo của sự tàn phá môi trường được phản ánh trong cuộc thảm sát đẫm máu bạo tàn dòng họ Thích Ca (Sakyā) bởi lòng hiềm thù mê muội của vua Tỳ Lưu Ly...
(Xem: 12652)
Với người xuất gia, phẩm vị được khẳng định ở giới hạnh chứ không phải ở tuổi tác. Có thể đầu xanh tuổi trẻ nhưng vẫn được tôn trọng cung kính...
(Xem: 14542)
Lòng tin là không nghi ngờ, không thắc mắc, không do dự, trung thành, tín cẩn. Khi nói chuyện với một người, có khi chúng ta tin liền điều người ấy nói...
(Xem: 38549)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 14669)
Chi tiết nổi bật nhất của pho tượng là đôi chân không tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền mà lại có vẻ như buông lơi: một chân gập lại và một chân buông thõng.
(Xem: 14667)
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
(Xem: 14096)
Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
(Xem: 14985)
Nghiệp là một quy luật tự nhiên và khách quan, vận hành hoàn toàn phù hợp với những hành động của chúng ta. Nghiệp tự thân nó là một quy luật nên không cần phải có người làm luật.
(Xem: 16590)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
(Xem: 29962)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 16252)
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở lại làm người, sinh lên cõi Trời...
(Xem: 15584)
Tinh thần giác ngộgiải thoát của đức Phật không những chỉ có trong kinh điển Phật giáo Tiểu thừa mà có cả trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 14939)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14936)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17920)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15628)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38740)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26792)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39719)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50854)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38802)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 35127)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18351)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16520)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42475)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39312)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35671)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17508)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46591)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17190)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28524)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 19023)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17636)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17141)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17601)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16568)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16954)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30928)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16971)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18551)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18518)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17420)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18192)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 17107)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23557)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 17056)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17493)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17735)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 17112)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15784)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 18090)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17458)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17268)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29593)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27803)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18203)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16147)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15397)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 23106)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14878)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant