Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

II. Bậc Tỳ Khưu (Bhikkhu)

12 Tháng Mười Hai 201200:00(Xem: 10023)
II. Bậc Tỳ Khưu (Bhikkhu)

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển III:
Hành Giới

PHẦN II: GIỚI CỦA BẬC XUẤT GIA


II- Bậc Tỳ Khưu (Bhikkhu)

Ý nghĩa danh từ Bhikkhu: Tỳ khưu

Bhikkhu có rất nhiều ý nghĩa:

Nghĩa Bhikkhu theo văn phạm Pāḷi

Bhikkhati sīlenā’ti Bhikkhu: Bậc có thói quen thường đi khất thực để nuôi mạng gọi là Bhikkhu: Tỳ khưu.

Saṃsāre bhayaṃ ikkhatī’ti Bhikkhu: Bậc thấy rõ sự tai họa trong vòng tử sinh luân hồi gọi là Bhikkhu: Tỳ khưu.

Nghĩa Bhikkhu theo Tạng Kinh

Trong Chú giải kinh Đại Tứ Niệm Xứ dạy:

Yo ca imaṃ paṭipattiṃ paṭipajjati, so Bhikkhu nāma hotī’ti paṭipattiyā Bhikkhubhāvadassanato pi “Bhikkhu”([2]).

(Hành giả nào thực hành Tứ niệm xứ này, hành giả ấy được gọi là Tỳ khưu. Tỳ khưu chính là hành giả thực hành Tứ niệm xứ).

“Paṭipannako hi devo vā hotu manusso vā Bhikkhū’ti saṅkhyaṃ gacchatiyeva”.

(Hành giả thực hành Tứ niệm xứ, dù là chư thiên hoặc nhân loại cũng đều được xem là Tỳ khưu cả thảy).

Như vậy, Tỳ khưu theo ý nghĩa Tạng Kinh chính là hành giả thực hành Tứ niệm xứ, hay thực hành thiền tuệ.

Nghĩa Bhikkhu theo Tạng Luật

Theo Tạng Luật, Bhikkhu: Tỳ khưu được thành tựu do chư Tỳ khưu Tăng hội họp tại nơi sīmā tụng ñatticatuttha-kammavācāpāḷi: Tụng 1 lần ñatti (tuyên ngôn)tiếp theo tụng 3 lần kammavācā (thành sự ngôn), nâng đỡ vị giới tử Sadi lên trở thành Bhikkhu (Tỳ khưu) đúng theo luật của Đức Phật.

Trong Chú giải bộ Cūḷavagga giảng giải. Để thành tựu Bhikkhu (Tỳ khưu) cần phải hội đủ 5 chi pháp:

1- Vatthusampatti: Người cận sự nam không phạm lỗi, không thuộc về những hạng người bị cấm xuất gia trở thành Tỳ khưu.

2- Ñattisampatti: Khi Tỳ khưu Luật sư tụng 1 lần ñatti (tuyên ngôn) hoàn toàn đúng theo văn phạm Pāḷi và đúng từng chữ, từng câu Pāḷi trong ñatti.

3- Anusāsanasampatti: Vị Tỳ khưu Luật sư tụng 3 lần kammavācā (thành sự ngôn) hoàn toàn đúng theo văn phạm Pāḷi và đúng từng chữ, từng câu Pāḷi trong kamma-vācā.

4- Sīmāsampatti: Chỗ ranh giới của sīmā hoàn toàn đúng theo Luật của Đức Phật chế định.

5- Purisasampatti: Chư Tỳ khưu Tăng hội họp tại sīmā cần phải có đủ số lượng. Ngoài Trung xứ Ấn Độ ra, các vùng biên địa hoặc xứ khác (như nước Việt Nam) chư Tỳ khưu Tăng cần phải có 5 vị trở lên. 5 vị Tỳ khưu ấy phải là Tỳ khưu thật. 

Khi chư Tỳ khưu Tăng hành tăng sự, tụng ñatticatutthakammavācāpāḷi: Tụng 1 lần ñatti (tuyên ngôn)tiếp theo tụng 3 lần kammavācā (thành sự ngôn) vừa chấm dứt, đồng thời giới tử Sadi cũng trở thành Bhikkhu (Tỳ khưu) trong Phật giáo.

Thọ Tỳ khưu có 2 hạng người:

- Người cận sự nam đủ 20 tuổi trở lên thọ Tỳ khưu gọi là: Bhikkhu (Tỳ khưu).

- Người cận sự nữ đủ 20 tuổi trở lên thọ Tỳ khưu gọi là: Bhikkhunī (Tỳ khưu ni).

Giới Của Tỳ Khưu

Giới của Tỳ khưu có 4 loại giới là:

1- Bhikkhupātimokkhasaṃvarasīla: Giới thu thúc trong giới bổn Tỳ khưu 227 điều để giải thoát khổ.

2- Indriyasaṃvarasīla: Giới thu thúc lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý).

3- Ājīvaparisuddhisīla: Giới nuôi mạng chân chánh (bằng cách đi khất thực).

4- Paccayasannissitasīla: Giới nương nhờ 4 thứ vật dụng (y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh).

Giải Thích:

1- Giới thu thúc trong giới bổn Tỳ khưu 227 điều để giải thoát khổ như thế nào?

- Giới thu thúc trong giới bổn Tỳ khưu 227 điều để giải thoát khổ trong Bhikkhupātimokkha…, Tỳ khưu giữ gìn giới được trong sạch đầy đủ, có thể giải thoát khổ ở kiếp hiện tại và kiếp vị lai.

- Tỳ khưu giữ gìn giới được trong sạch và đầy đủ là do nhờ có đức tin đầy đủ (saddhasādhana). Tỳ khưu có đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, thì việc giữ gìn giới được coi trọng hơn việc giữ gìn sinh mạng. Do đó, giới được giữ gìn trong sạch và đầy đủ.

Nếu Tỳ khưu phạm giới nhẹ, thì giới không còn trong sạch, để giúp cho giới trở nên trong sạch lại, thì phải sám hối āpatti (desanāsuddhi). Khi Tỳ khưu sám hối āpatti xong, thì giới của mình được trong sạch trở lại.

Giới của Tỳ khưu trong Bhikkhupātimokkha chỉ có 227 điều mà thôi, nhưng trong Tạng Luật, giới của Tỳ khưu gồm có cả thảy 91.805.036.000 điều giới mà Tỳ khưu cần phải giữ gìn cho được trong sạchtrọn vẹn.

2- Giới thu thúc lục căn như thế nào?

Lục căn: Nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căný căn là nơi tiếp xúc của lục trần: Sắc trần, thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trầnpháp trần.

Tỳ khưu giữ gìn giới thu thúc lục căn thanh tịnh do nhờ có chánh niệmtrí tuệ tỉnh giác không chấp thủ nơi đối tượng (đàn ông, đàn bà), không chấp thủ một bộ phận nào trong cơ thể cho là đẹp hoặc xấu.

- Khi sắc trần tiếp xúc với nhãn căn, phát sinh nhãn thức tâm làm phận sự nhìn thấy sắc trần ấy; Tỳ khưu có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác thấy rõ, biết rõ nhãn thức tâm thấy sắc trần thuộc danh pháp, còn sắc trần thuộc sắc pháp, không phải ta, người, chúng sinh, vật này, vật kia,…

- Khi thanh trần tiếp xúc với nhĩ căn, phát sinh nhĩ thức tâm làm phận sự nghe thanh trần ấy; Tỳ khưu có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác thấy rõ, biết rõ nhĩ thức tâm nghe thanh trần thuộc danh pháp, còn thanh trần thuộc sắc pháp, đều không phải ta, người…

- Khi hương trần tiếp xúc với tỷ căn, phát sinh tỷ thức tâm làm phận sự ngửi hương trần ấy; Tỳ khưu có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác thấy rõ, biết rõ tỷ thức tâm ngửi hương trần thuộc danh pháp, còn hương trần thuộc sắc pháp, đều không phải ta, người,…

- Khi vị trần tiếp xúc với thiệt căn, phát sinh thiệt thức tâm làm phận sự nếm vị trần ấy; Tỳ khưu có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác thấy rõ, biết rõ thiệt thức tâm nếm vị trần thuộc danh pháp, còn vị trần thuộc sắc pháp, đều không phải ta, người,…

- Khi xúc trần tiếp xúc với thân căn, phát sinh thân thức tâm làm phận sự xúc giác với xúc trần ấy; Tỳ khưu có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác thấy rõ, biết rõ thân thức tâm xúc giác với xúc trần thuộc danh pháp, còn xúc trần thuộc sắc pháp, đều không phải ta, người,…

- Khi pháp trần tiếp xúc với ý căn, phát sinh ý thức tâm làm phận sự biết pháp trần ấy; Tỳ khưu có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác thấy rõ, biết rõ ý thức tâm biết pháp trần thuộc danh pháp, còn pháp trần thuộc sắc pháp, hoặc danh pháp, đều không phải ta, người, chúng sinh, vật này, vật kia,…

Đó gọi là giới thu thúc lục căn thanh tịnh.

Tỳ khưu giữ gìn giới thu thúc lục căn thanh tịnh là do nhờ có chánh niệm đầy đủ (satisādhana).

Giới thu thúc lục căn được thanh tịnh bằng cách thu thúc thanh tịnh (saṃvarasuddhi).

3- Giới nuôi mạng chân chánh thanh tịnh như thế nào?

- Tỳ khưu từ bỏ cách sống không chân chánh, cách sống tà mạng bằng thân, bằng khẩu do bởi lòng tham muốn thấp hèn.

- Tỳ khưu giữ gìn giới nuôi mạng chân chánh thanh tịnh do nhờ sự tinh tấn đầy đủ (vīriyasādhana), đi tìm 4 thứ vật dụng theo nhu cầu cần thiết hằng ngày đêm nuôi mạng chân chánh trong sạch thanh tịnh, 4 thứ vật dụng đó là:

Y phục: Vị Tỳ khưu đi tìm lượm vải dơ giặt sạch rồi may y để mặc. Nếu có thí chủ dâng y, thì được phép thọ nhận y để mặc.

Vật thực: Hằng ngày vị Tỳ khưu đi khất thực từng nhà để nuôi mạng. Nếu có thí chủ dâng cúng dường vật thực thì được phép thọ nhận vật thực để dùng buổi ngọ (không quá 12 giờ trưa).

Chỗ ở: Tỳ khưu ở cội cây, trong hang động để thực hành pháp hành thiền định, hoặc thực hành pháp thiền tuệ hầu mong giải thoát khổ trong ba giới bốn loài. Nếu có thí chủ dâng chỗ ở (cốc), thì được phép thọ nhận để hành đạo.

Thuốc trị bệnh: Khi Tỳ khưu bị lâm bệnh, nên dùng nước tiểu ngâm với trái cây rừng để làm thuốc trị bệnh. Nếu có thí chủ dâng cúng dường thuốc trị bệnh, thì được phép thọ nhận thuốc ấy để trị bệnh.

4- Giới nương nhờ 4 thứ vật dụng như thế nào?

Y phục, vật thực, chỗ ở thuốc trị bệnh, là 4 thứ vật dụng thiết yếu cho đời sống Tỳ khưu. Cho nên, mỗi khi Tỳ khưu đang dùng thứ vật dụng nào, nên có trí tuệ sáng suốt suy xét rõ thứ vật dụng ấy.

- Khi Tỳ khưu mặc y, nên có trí tuệ suy xét đúng đắn rằng:

“Paṭisaṅkhā yoniso cīvaraṃ paṭisevāmi, yāvadeva sītassa paṭighātāya, uṇhassa paṭighātāya, daṃsamakasa-vātātapa-sirīsapa-samphassānaṃ paṭighātāya, yāvadeva hirikopīnappaṭicchādanatthaṃ”.

(Tỳ khưu, Sadi nên có trí tuệ sáng suốt suy xét đúng theo sự thật rằng: ‘Tôi đã suy xét bằng trí tuệ rồi mới mặc y phục chỉ để ngăn ngừa sự lạnh, ngăn ngừa sự nóng, ngăn ngừa sự tiếp xúc ruồi, muỗi, gió, nắng, rắn rít. Và cũng chỉ để che phần đáng hổ thẹn trong thân thể mà thôi’).

- Khi Tỳ khưu thọ thực, nên có trí tuệ suy xét đúng đắn rằng:

“Paṭisaṅkhā yoniso piṇḍapātaṃ paṭisevāmi, neva davāya, na madāya, na maṇḍanāya, na vibhūsanāya, yāvadeva imassa kāyassa ṭhitiyā yāpanāya vihiṃsūparatiyā brahmacariyā-nuggahāya, iti puraṇañca vedanaṃ paṭihankhāmi, navañca vedanaṃ na uppādessāmi, yātrā ca me bhavissati anavajjatā ca phāsuvihāro ca”.

(Tỳ khưu, Sadi nên có trí tuệ sáng suốt suy xét đúng theo sự thật rằng: ‘Tôi đã suy xét bằng trí tuệ rồi mới dùng vật thực không phải để vui chơi như trẻ con, cũng không phải để tăng cường sức mạnh như người lực sĩ, cũng không phải để làm đẹp thân thể như đàn bà, cũng không phải để bồi dưỡng thân thể cho xinh đẹp như kỹ nữ. Sự thật, tôi dùng vật thực để nuôi dưỡng duy trì sắc thân, để làm giảm đi sự khổ thân, chỉ để thực hành phạm hạnh cao thượng mà thôi. Do nhờ sự thọ thực này, tôi có thể làm giảm được sự đang đói khổ và sẽ làm cho sự khổ mới không phát sinh).

- Khi Tỳ khưu ở chỗ ở, nên có trí tuệ suy xét đúng đắn rằng:

“Paṭisaṅkhā yoniso senāsanaṃ paṭisevāmi, yāvadeva sītassa paṭighātāya, uṇhassa paṭighātāya, daṃsamakasa-vātātapa-sirīsapa-samphassānaṃ paṭighātāya, yāvadeva utuparissayavinodana paṭisallānārāmatthaṃ”.

(Tỳ khưu, Sadi nên có trí tuệ sáng suốt suy xét đúng theo sự thật rằng: ‘Tôi đã suy xét bằng trí tuệ rồi mới sử dụng chỗ ở chỉ để ngăn ngừa sự lạnh, để ngăn ngừa sự nóng, để ngăn ngừa sự tiếp xúc ruồi, muỗi, gió, nắng, rắn rít mà thôi. Và cũng chỉ để tránh sự tai hại do thời tiết, được an lạc nơi thanh vắng, để hành phạm hạnh cao thượng’).

- Khi Tỳ khưu dùng thuốc trị bệnh, nên có trí tuệ suy xét đúng đắn rằng:

“Paṭisaṅkhā yoniso gilānappaccayabhesajja parikkhāraṃ paṭisevāmi, yāvadeva uppannānaṃ veyyābādhikānaṃ vedanānaṃ paṭighātāya abyābajjhaparamatāya”.

(Tỳ khưu, Sadi nên có trí tuệ sáng suốt suy xét đúng theo sự thật rằng: ‘Tôi đã suy xét bằng trí tuệ rồi mới dùng thuốc trị bệnh bảo vệ sinh mạng, chỉ để điều trị khổ bệnh đã và đang phát sinh, để không khổ do bệnh hoạn ấy’).

Khi Tỳ khưu, Sadi nào đang dùng thứ vật dụng nào, mà không suy xét, vị Tỳ khưu, Sadi ấy dùng vật dụng ấy như người mang nợ (iṇaparibhoga).

Như vậy, Tỳ khưu có giới nuôi mạng chân chính, là do nhờ sự tinh tấn đầy đủ. Còn giới nương nhờ 4 thứ vật dụng thanh tịnh là do nhờ trí tuệ đầy đủ (paññāsādhana). Tỳ khưu có trí tuệ đầy đủ, mỗi khi dùng thứ vật dụng nào, đều có trí tuệ suy xét thứ vật dụng ấy.

Giới nương nhờ 4 thứ vật dụng được thanh tịnh bằng trí tuệ suy xét thanh tịnh (paccavekkhaṇasuddhi), mỗi khi dùng thứ vật dụng nào, nên có trí tuệ suy xét biết rõ sự lợi ích của thứ vật dụng ấy, đồng thời có thể ngăn ngừa được phiền não nương nhờ ở thứ vật dụng ấy.

Khi Tỳ khưu, Sadi thọ nhận thứ vật dụng nào, dù có trí tuệ suy xét thấy rõ thực tánh của thứ vật dụng ấy, song khi Tỳ khưu, Sadi đang thọ dụng thứ vật dụng ấy mà không có trí tuệ suy xét, thì Tỳ khưu, Sadi ấy vẫn không thể tránh khỏi lỗi. Còn trường hợp khi Tỳ khưu, Sadi thọ nhận thứ vật dụng nào, dù không có trí tuệ suy xét thứ vật dụng ấy, song khi Tỳ khưu, Sadi đang thọ dụng thứ vật dụng ấy có trí tuệ suy xét, thì Tỳ khưu, Sadi ấy không có lỗi, không mang nợ.

Khi Tỳ khưu, Sadi có trí tuệ sáng suốt suy xét đang dùng thứ vật dụng nào trong 4 thứ vật dụng: Y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh; vị Tỳ khưu, Sadi ấy có trí tuệ sáng suốt không những thấy rõ, biết rõ thứ vật dụng ấy chỉ là tứ đại (đất, nước, lửa, gió) mà thôi, là thực tánh của sắc pháp, không phải là chúng sinh, không có sinh mạng, là pháp vô ngã; mà còn người dùng thứ vật dụng ấy cũng chỉ là ngũ uẩn, danh pháp sắc pháp mà thôi, đều là pháp vô ngã.

Thật vậy, như trong bài kinh Mahāsatipaṭṭhānasutta (kinh Đại Niệm Xứ) phần Sampajānapabba (phần trí tuệ tỉnh giác), Đức Phật dạy trong khi dùng vật thực nước uống rằng:

Asite pite khāyite sāyite sampajānakārī hoti”.

(Hành giả là người có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trong khi ăn, uống, nhai, nếm vị...).

Như vậy, chư Tỳ khưu, Sadi nói riêng, mọi người nói chung có trí tuệ suy xét trong khi dùng thứ vật dụng nào, biết rõ sự lợi ích của thứ vật dụng ấy, chỉ có vậy mà thôi. Thứ vật dụng ấy dù có tốt cũng không phát sinh tâm tham ái, hoặc dù có xấu cũng không phát sinh tâm sân nơi thứ vật dụng ấy.

Quyển sách “Hành Giới” này đề cập đến giới của người tại gia là chính, còn giới của bậc xuất gia: Tỳ khưu, Sadi chỉ trình bày tóm tắt mà thôi, bởi vì giới của Tỳ khưu, Sadi rất nhiều, nên tìm hiểu những bộ sách khác.



[1] Vinayapiṭaka, bộ Cūḷavagga, phần Vattakkhandhaka.

[2] Chú giải bộ Mahāvagga, kinh Mahāsatipaṭṭhānasuttavaṇṇā.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14507)
Lòng tin là không nghi ngờ, không thắc mắc, không do dự, trung thành, tín cẩn. Khi nói chuyện với một người, có khi chúng ta tin liền điều người ấy nói...
(Xem: 38496)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 14657)
Chi tiết nổi bật nhất của pho tượng là đôi chân không tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền mà lại có vẻ như buông lơi: một chân gập lại và một chân buông thõng.
(Xem: 14654)
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
(Xem: 14071)
Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
(Xem: 14958)
Nghiệp là một quy luật tự nhiên và khách quan, vận hành hoàn toàn phù hợp với những hành động của chúng ta. Nghiệp tự thân nó là một quy luật nên không cần phải có người làm luật.
(Xem: 16572)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
(Xem: 29913)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 16233)
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở lại làm người, sinh lên cõi Trời...
(Xem: 15557)
Tinh thần giác ngộgiải thoát của đức Phật không những chỉ có trong kinh điển Phật giáo Tiểu thừa mà có cả trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 14922)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14912)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17895)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15589)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38690)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26745)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39681)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50791)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38759)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 35065)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18317)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16478)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42421)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39265)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35631)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17472)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46546)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17165)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28511)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 19009)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17604)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17120)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17562)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16545)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16904)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30861)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16948)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18512)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18471)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17395)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18175)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 17083)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23515)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 17002)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17471)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17685)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 17074)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15746)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 18051)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17449)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17222)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29538)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27741)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18193)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16122)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15379)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 23054)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14843)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 55136)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 14210)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant