Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trung quán tông và ánh sáng tâm linh

22 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 12134)
Trung quán tông và ánh sáng tâm linh

TRUNG QUÁN TÔNG và ÁNH SÁNG TÂM LINH

Huỳnh Ngọc Chiến

Trong phần mở đầu chương 3 của tác phẩm The Grand Design (Bản thiết kế vĩ đại), nhà vật lý thiên tài Hawking đã nêu lên một vấn đề lý thú. Cách đây mấy năm, hội đồng thành phố Monza ở Italy đã cấm không cho những người thích nuôi vật cưng được nuôi giữ cá vàng trong những cái bể nước kính cong. Họ lý giải rằng điều đó thật là tàn nhẫn, vì nếu như thế, khi nhìn ra ngoài, con cá sẽ có cái nhìn sai lệch về thực tại. Thế rồi tác giả đặt câu hỏi: “Nhưng làm thế nào chúng ta biết được rằng chúng ta đã có bức tranh chân thực, không hề sai lệch về thực tại?”(2). Câu hỏi đó là nỗi băn khoăn muôn thuở của con người.

Liệu cái thế giớichúng ta đang nhìn thấy đây phải chăng là cái thế giới y như thực? Đâu là khuôn mặt thực của thế giới? Đâu là chân tướng của vạn hữu? Bản nguyên của vũ trụ là Tâm hay Vật? Vấn đề này đã kéo theo cuộc tranh luận dài cả nghìn năm giữa các trường phái triết học, khi con người bắt đầu khai mở tâm thức để đối diện với thế giới chung quanh.

Tìm hiểu được chân diện mục của thế giới vẫn là nỗ lực không ngừng của con người. Suốt mấy ngàn năm qua, hàng trăm tông phái, học thuyết nối tiếp nhau ra đời trên khắp cõi Đông Tây kim cổ, với hàng ngàn các triết gia luôn khẳng định một bức tranh do mình đưa ra là hình ảnh chân thực duy nhất về thế giới. Và có bao nhiêu bức tranh “chân thực” là có bấy nhiêu sự xung độtmâu thuẫn giữa chúng! Sự xung đột giữa các kiến giải bất đồng về bức tranh thế giới vẫn kéo dài liên miên suốt mấy ngàn năm qua trong lịch sử tư tưởng nhân loại.

Giống như loài cá vàng nhìn thế giới qua tấm kính cong và “xác lập” nên những quy luật vận động phù hợp với thế giới đó; cũng vậy, con người đã dùng biết bao mô thức tư duy (thought-pattern) để cố xác lập chân diện mục của thực tướng theo cách nhìn của mình; áp đặt mọi thứ phạm trù Nhân và Quả, Động và Tĩnh, Dạng thức và Bản thể, Đồng và Dị, Nhất và Đa v.v... lên Thực tướng khiến Thực tướng đã bị che mờ dưới mạng lưới lạnh lùng của tư duy.

Mọi con đường của lý tính đều dẫn đến bế tắc, khi cố vươn đến chân diện mục của Thực tướng, do chính bản chất xung đột của lý tính (conflict of Reason). Hai bài toán “ngụy biện” đơn giản của Zeno(3) vẫn lơ lửng ở đấy như một thách thức điển hình cho mọi hệ thống lý luận của con người, để con người tỉnh ngộ hiểu ra rằng những mô thức tư duy mà mình áp đặt lên thực tại đều sai lệch, vì cứ muốn dùng Tục đế (savti) để thể ngộ Chân đế (parāmartha) bằng phương pháp suy diễn theo kiểu lý luận học phương Tây.

Khi nào con người chưa liễu ngộ được bản chất xung đột của lý tính, vẫn còn hoang tưởng rằng có thể dùng lý luận để phát lộ “chân diện mục của Lô sơn” thì Achille vẫn suốt đời không đuổi kịp chú rùa, và mũi tên vĩnh viễn không bao giờ bay đến đích, vì giữa lý tínhthực tướng có một hố thẳm không thể vượt qua, khi ta áp đặt nó thành một cấu trúc tư duy (Thought-Construction) được hình thành do tác động của Vô minh.

Cùng với sự chiến thắng vượt trội không thể chối cãi của nền khoa học kỹ nghệ Âu châu trên phạm vi toàn cầu, nếp suy tư theo kiểu phương Tây hầu như đã chi phối toàn bộ não trạng của chúng ta, hầu như đã giam hãm toàn thế giới trong mạng lưới tư duy duy lý, khiến không ít bậc thức giả hầu như tin tuyệt đối vào sự thống trị của lý trí Âu châu một cách hoàn toàn mù quáng. Đó là hiểm họa mà triết gia Heidegger đã cảnh báo là “tiến trình Âu hóa con người và trái đất đã gây tổn hại đến những điều tinh yếu ở tận cội nguồn” đang diễn ra trên toàn cõi địa cầu(4).

Triết học Ðông phương, đặc biệtPhật giáo, vẫn thường tỏ ra dè dặt với sự lãnh hội của lý tính. Người ta không tin rằng lý tính có thể thấu hiểu được mọi vấn đề bằng khả năng, phân tích tổng hợp hay tích lũy kiến thức của nó. Bởi vì điều đó chỉ đưa đến tổng số thay vì tổng hòa, nếu không có được một đầu mối nhất dĩ quán thấu suốt tất cả để thành Nhất thể viên dung.

Phản bác mọi phạm trù tư duy và tất cả các kiến giải không có nghĩa là phản bác chức năng của lý tính mà chỉ có nghĩa là phản bác năng lực của lý tính trong vấn đề liễu tri được Thực tướng. Cái Thực hữu [Real] vốn bất khả tư nghì, siêu việt cảnh giới của tư tưởng; nó là phi nhị nguyên, là Không (śūnya), siêu quá nhị nguyên tính đối đãi giữa Hữu và Vô.

Nhận thức được sự xung đột của lý tínhnỗ lực giải quyết xung đột đó bằng cách nâng nó lên một bình diện cao hơn lý tính, đó là lưỡi Tuyệt đao của Trung quán tông. Trung quán tông đi thẳng vào trọng tâm của vấn đề, tức sự xung đột của lý tính, theo kiểu đơn đao trực nhập, luận phá mọi mô thức khái niệm, xem chúng đều rỗng không (śūnya), và giới hạn chúng vào trong phạm vi tục đế.

Từ gần hai ngàn năm qua, kể từ khi xuất hiện trên đỉnh cao chót vót giữa phương trời tư tưởng lồng lộng của Ấn Độ, lưỡi Tuyệt đao của đại luận sư Nāgārjuna đã quét sạch những kiến giải hư ngụy trong não trạng loài người, gây nên một cơn chấn động vô tiền khoáng hậu trong toàn cõi đạo giáo phương Đông bằng tánh Không (Śūnyatā) gây kinh hãi. Tánh Không Trung quán tông phá hủy mọi lập trường, mọi kiến giải, quét sạch toàn bộ thế giới vật lýtâm lý với Lục căn, Lục trần, Lục thức, cho đến thuyết Tứ diệu đếThập nhị nhân duyên - nền tảng của tư tưởng Phật giáo - trong cơn cuồng phong phủ định toàn triệt của các chữ Bất, Phi, Vô; giống như Độc cô cửu kiếm dùng vô chiêu để tận phá mọi kiếm pháp hữu chiêu trong thiên hạ. Chiêu thức của Độc cô cửu kiếm là vô chiêu, không đánh theo một chiêu thức nào chỉ mà đánh vào chỗ sơ hở của kiếm pháp đối phương để phá giải; cũng giống như kiến giải của Trung quán tôngKhông chư kiến (śūnyatā of dṛṣṭi : 空 諸 見) tức xem mọi kiến giải đều là Không (śūnya); đó là kiến giải phi kiến giải, lập trường phi lập trường, quan điểm phi quan điểm. Trung quán tông, do đó, luận phá mọi kiến giải của đối phương bằng cách phát lộ cho đối phương thấy những yếu tố bất toàn tất yếu cùng sự mâu thuẫn xung đột nội tại trong mọi thể cách lập luận của họ, nhưng lại không hề đưa ra một kiến giải mới, vì kiến giải mới, nếu có, cũng là Không nốt; nếu khác đi thì kiến giải mới đó cũng sẽ chứa những yếu tố bất toàn tất yếu cùng sự mâu thuẫn xung đột nội tại, nên nó sẽ tiếp tục bị luận phá, rồi sự luận phá mới đó lại dẫn đến một kiến giải mới khác nữa; điều đó sẽ dẫn đến sự hồi quy vô tận [regress ad infinitum]. Đối với Trung quán tông, bản thân sự luận phá mọi kiến giải tự nó đã là một kiến giải, cũng như đường kiếm vô chiêu tự nó đã hình thành một chiêu thức. Đó là ý nghĩa của hai chữ “phê phán” (criticism) mà tác giả Murti dùng trong suốt tác phẩm, trong nỗ lực muốn dìu những độc giả quen thuộc với tư tưởngphê phán” của Kant và biện chứng pháp của Hegel, đặc biệt là Kant, tiếp cận được thông lộ dẫn về cội nguồn của Bát bất Trung đạo của Trung quán tông, đồng thời vạch ra những suy tư hời hợt của nhiều nhà nghiên cứu phương Tây khi đồng nhất triết học về Tánh Không của Trung quán tông với hư vô luận [nihilism] một cách thiển cận và hời hợt.

Trung quán tông luận phá mọi kiến giải về Thực tướng không phải để phủ nhận Thực tướng mà để đưa đến Prajña (trí tuệ Bát-nhã) hay Trực giác Vô nội dung [contentless Intuition]. Đó là Bất nhị trí hay Vô phân biệt trí. Nội dung của Trực giác Vô nội dung là Cảnh giới tuyệt đối hay Toàn thể thực tướng, chứ không phải là một đối tượng cụ thể bất kỳ nào. Khi mọi kiến giải theo mô thức tư duy bị quét sạch khỏi tâm trí, khi tâm không còn chướng ngại thì nó sẽ hoàn toàn trong suốt. Trong cảnh giới đó, Tâm và Thực tướng viên dung hòa hợp, bất khả phân ly trong Prajñāpāramitā (Bát-nhã Ba-la-mật) - một cảnh giới hoàn toàn tương phản với quan niệm hiện đại xem triết học là một khoa học phổ quát, dung hợp được nhiều ngành khoa học khác nhau vào một hệ thống mạch lạc.

Trong pháp môn Lục độ, Prajña (trí Bát-nhã) phải đi cùng với bố thí (dāna), trì giới (śīla), nhẫn nhục (kānti), tinh tấn (vīrya), thiền định (dhyāna) mới có thể giúp tâm thanh tịnh để thể ngộ chân lý. Rồi đến lượt đó, Prajña lại giúp cho các pāramitā kia được hoàn thiện, tựu thành vô lượng điều toàn mỹ, khiến cho mỗi pāramitā được là pāramitā - hay sự toàn mãn. Chỉ có Prajñāpāramitā (Bát-nhã Ba-la-mật) - tức một loại Chân trí bằng trực giác phi khái niệm - mới có thể là loại thuốc đối trị hữu hiệu mọi vọng tưởng phân biệt vọng tưởng (vikalpa) của lý trí con người.

Prajñāpāramitā là chỗ kết tinh của mọi lý luận trong thiên hạ, còn tánh Không làm tiêu dung tất cả các kiến giải cổ kim. Mô phỏng theo Ngọa Long Sinh(5) ta có thể nói “Trước Thiên kiếm Prajñāpāramitā, lý luận không còn tuyệt học; dưới Tuyệt đao Śūnyatā, kiến giải không có sinh cơ.”! Đẩy lý trí con người vào tuyệt lộ bằng pháp môn quy mậu chứng pháp (prasanga) hay phương pháp quy kết bội lý (reductio ad absurdum), đưa tất cả mọi biện giải đến chỗ bế tắc, buộc tất cả các luận sư uyên bác phải đối diện với sự sụp đổ tan tành của mọi hệ thống lý luận, của mọi nền triết học do những mâu thuẫn xung đột nội tại, để thấy được rằng mọi điện đài duy lý đồ sộ của họ đều là những công trình xây trên cát; đó là Tuyệt đao. Nhưng phủ định toàn triệt theo tinh thần Prajña là thể cách vi diệu để đưa đến sự khẳng định toàn triệt trong cảnh giới tự do tuyệt đối; trong cảnh giới thù thắng đó thì khẳng định là phủ định, và phủ định là khẳng định, để đưa tâm thức con người đến cảnh giới giải thoát tối hậu, đó là Thiên kiếm. Tuyệt đao thì phá hủy mọi kiến giải theo thể cách của Trí tuệ, còn Thiên kiếm thì từ bi hóa độ theo thể điệu của Bi tâm. Cả kiếm lẫn đao đều vạch ra một thông lộ cho hành giả tìm về cõi đạo uyên nguyên trong sự im lặng của Đức Phật- sự im lặng bao trùm tất cả những chân trời tư tưởng của nhân loại. Trong Tuyệt đao đã hàm ẩn Thiên kiếm, và trong Thiên kiếm vẫn thấp thoáng Tuyệt đao. Và tại chỗ chót vót sơ đầu, cả Thiên kiếm và Tuyệt đao đều hợp nhất thành cái một tuyệt đối, viên dung nhất thể trong phương trời lồng lộng của cõi viên mãn Như Lai.

T.R.V Murti được xem là một trong những nhà tư tưởng lỗi lạc nhất về triết học Ấn Độ trong thế kỷ XX. Ông đã phân tích và đánh giá cặn kẽ giáo lý Trung quán tông qua cái nhìn thông tuệ của một bậc thức giả phương Tây đầy uy tín, một người được giới học giả xem là người có đầy đủ thẩm quyền về kinh điển Ấn Độ mà ông hầu như thuộc lòng, như kinh điển Phật giáo, kinh văn Upanisads, văn phạm của Panini, cùng nhiều kinh văn quan trọng khác…

T.R.V Murti là một bậc thức giả phương Tây, nhưng tâm hồn ông lại được nuôi dưỡng trong không khí tâm linh phương Đông, nên đọc ông, ta có cảm giác gần gũi như một bậc luận sư phương Đông đã thấu hiểu tận ngọn ngành của triết học phương Tây, liễu tri được toàn bộ sự bế tắc của nền văn minh duy lý châu Âu đang làm khốn quẫn toàn thế giới trong mạng lưới tư duy theo kiểu Âu châu. Một người được nuôi dưỡng trong bầu không khí triết học phương Tây lại mạnh dạn khẳng định : “Biện chứng pháp của Hegel là một sản phẩm xa hoa phù phiếm, chứ hoàn toàn vô giá trị về phương diện tâm linh”(6). để kêu gọi thế giới quay về đời sống tâm linh phương Đông, đặc biệtTuyệt đối luận của Trung quán tông Phật giáo, xem như đó là lối thoát cuối cùngduy nhất cho toàn thế giới. Cũng như Heidegger, ông ý thức sâu sắc sự tàn phá khốc liệt của nền văn minh phương Tây đối với tư tưởng nhân loại. Toàn thể nhân loại đang khát khao mong đợi sự hợp nhất tâm linh cho một thế giới đang bị xâu xé tan nát bởi biết bao sự xung đột, bởi những hệ tư tưởng hiếu chiến đang đe dọa nhận chìm toàn thể thế giới vào sự diệt vong. Những phát minh khoa học, đặc biệt là mạng internet với những chiếc máy tính đã tạo thành một hệ thống tinh xảo để nối kết toàn cầu vào trong mạng lưới khổng lồ của những siêu xa lộ thông tin. Không gian dường như đã dần thu hẹp lại, thế giới dường như đã có thể dần sát kề vai nhau, thế nhưng sự khác biệt và xung khắc giữa con người, giữa các quốc gia, giữa các chủng tộc lại gia tăng một cách khủng khiếp; đấu tranh và thống khổ vẫn ngập tràn trên cõi thế. Chiến tranh đã trở thành căn bệnh kinh niên lan rộng trên phạm vi toàn cầu.

Sau khi trình bày sự hỗn loạn và đổ vỡ tràn lan trên cõi thế, Murti mạnh dạn kết luận:

“Căn nguyên nào có gì là bí ẩn đâu. Nền văn minh phương Tây, kể từ thời phục hưng, đã phát triển mạnh mẽ theo lộ tuyến duy vật (materialistic lines) và trở thành quy phạm cho toàn thế giới… Con người đã chinh phục được thiên nhiên hoặc gần như đã làm được điều đó, nhưng lại không làm chủ được bản thân mình. Hậu quả thật là thảm khốc. Cuộc sống được tổ chức tưởng chừng ổn định và an toàn đã trở nên bấp bênh, bất ổn. Chúng ta giành được cả thế giới nhưng lại đánh mất linh hồn(7).

Mọi chủ trương tăng gia số lượng sản phẩm và tổ chức lại cơ cấu xã hội để đem đến bình yên cho thế giới đều thất bại, khi những nỗ lực đó không có một nền tảng tâm linh. Mọi sự đối thoại giữa các quốc gia, giữa các chủng tộc đều bế tắc không thể dẫn đến cảm thông, khi con người chỉ có thể nhìn nhau như loài cá vàng nhìn thế giới qua bể kính nước cong. Chỉ có tâm linh mới đem đến một nền tảng thực sự cho xã hội, và hướng dẫn con người thực hiện được những giá trị khác. Về phương diện này thì Tuyệt đối luận của Trung quán tông Phật giáo với tư tưởng Prajñāpāramitā thù thắngTánh Không (Śūnyatā) thâm diệu sẽ là “nền tảng cho sự phục sinh tâm linh cho thế giới” (back-ground for the spiritual regeneration of the world)(8), như Murti, và cả loài người, đang mong đợi

 Chú thích

(1) Cảm nhận của người viết sau khi đọc tác phẩm “The Central Philosophy of Budshism” của T.V. Murti.

(2) “But how do we know we have the true, undistorted picture of reality?” (Hawking, The Grand Design, Bantam Books, New York, 2010, p. 50.)

(3) Nghịch lý Achille và con rùa: là nghịch lý nổi tiếng của Zeno. Achille là một dũng sĩ Hy Lạp có tài chạy nhanh. Achille và Rùa cùng chạy thi. Giả sử rùa đứng trước Achilles 100 mét, và tốc độ của Achille gấp 100 lần rùa. Khi Achilles chạy được khoảng cách 100 mét, đến vị trí xuất phát của rùa, thì rùa đi được 1m; khi Achille vượt tiếp qua đoạn đường 1m đó thì rùa lại đi được 10-2m; khi Achille vượt tiếp qua đoạn đường 10-2m đó thì rùa lại đi được 10-4 m v.v... Cứ tiếp tục mãi như vậy, khoảng cách giữa Achille và rùa sẽ tiến đến con số cực vi dạng 10-2n, nhưng không bao giờ bằng 0. Do đó, dũng sĩ Achilles không bao giờ đuổi kịp chú rùa!

Nghịch lý mũi tên bay: Ta bắn 1 mũi tên từ vị trí A đến tấm bia ở vị trí B. Mũi tên muốn đến được B thì phải đi qua trung điểm A1 của AB, muốn đến được A1 thì phải qua trung điểm A2 của AA1, muốn đến được A2 thì phải qua trung điểm A3 của AA2 v.v... Cứ tiếp tục như vậy, mũi tên phải lần lượt qua vô hạn các trung điểm của các đoạn thẳng chia nhỏ, do đó mũi tên không bao giờ đến được đích!

(4) “Sự mù quáng đó lớn mạnh đến mức người ta không còn khả năng thấy được tiến trình Âu hóa con người và trái đất đã gây tổn hại đến những điều tinh yếu ở tận cội nguồn như thế nào. Dường như tiến trình đó khiến cho mọi cội nguồn đều trở nên khô cạn.” (Die Verblendung wächst, so daß man auch nicht mehr zu sehen vermag, wie die Europäisierung des Menschen und der Erde alles Wesenhafte in seinen Quellen anzehrt. Es scheint, als sollten diese versiegen. (Heidegger, Unterwegs zur Sprache, Vittorio Klostermann, Frankfurt am Main, 1985, tr. 99).

(5) Lời của Thiên hạ đệ nhất đao Hướng Ngao phẩm bình kiếm pháp của Thiên hạ đệ nhất kiếm Cơ Đồng: 姬 老 兒 劍 下 無 絕 學 , 老 夫 的 刀 下無 生 機 Cơ lão nhi kiếm hạ vô tuyệt học, lão phu đích đao hạ vô sinh. (Dưới kiếm Cơ Đồng không còn tuyệt học, dưới đao lão phu không có sinh cơ - Thiên kiếm tuyệt đao 天 劍 絕 刀, chương 4). Một bên là Thiên kiếm theo nguyên lý Sinh, đem bi tâm trùm lên kiếm pháp để hóa giải tất cả võ học trong thiên hạ. Một bên là Tuyệt đao theo nguyên lý Diệt, đem sát tâm hóa vào đao pháp để tận diệt mọi đối thủ trên đời. Làm thế nào để đem được sát tâm của Tuyệt đao hòa vào Thiên kiếm, cũng như làm thế nào để hòa được bi tâm của Thiên kiếm vào sát khí của Tuyệt đao? Với tác phẩm Thiên kiếm Tuyệt đao, Ngọa Long Sinh đã lặng lẽ mở ra một chân trời huyền ẩn cho tư tưởng để tựu thành những điều bất khả tư nghì cho cõi đạo Sơ Thủy Đông Phương.

(6) “The dialectic of Hegel is a brilliant superfluity, it had no spiritual value” T.V.Murti, The Central Philosophy of Buddhism,  Goerge Allen and Unwin, 1968, p. 305.

(7) “The causes are not hidden. Western civilization, which has become the norm for all, has developed, since the Renaissance, along materialistic lines. …. Man has conquered Nature or is very near doing that; but he has not the rudimentary control over himself. The consequences are disastrous. Organised life with any pretence to stability and security has become precarious. We have gained the world, but have lost our soul.” (Op. cit. p. 338)

(8) Op. cit. p. 341.


Huỳnh Ngọc Chiến

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12650)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12266)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11043)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10921)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13372)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11794)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13672)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11914)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11183)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12209)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12413)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20606)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12438)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12466)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11729)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11604)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22441)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13587)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29701)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11553)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16757)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12017)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16853)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12084)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17936)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12654)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13179)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14772)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22637)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10595)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14056)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13879)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13728)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13879)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13950)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14842)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13863)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18428)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22812)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15406)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17332)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22426)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14273)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12595)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11180)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17778)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13218)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13115)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18808)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17188)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13518)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12928)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14706)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14665)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15882)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13527)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27448)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13256)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16737)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21404)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant