Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lược Ý Thủ Lư Trong Nghi Thức Phần Hương Cúng Dường Phật Giáo Bắc Truyền

29 Tháng Bảy 201300:00(Xem: 17531)
Lược Ý Thủ Lư Trong Nghi Thức Phần Hương Cúng Dường Phật Giáo Bắc Truyền


Lược Ý Thủ Lư Trong Nghi Thức Phần Hương Cúng Dường Phật Giáo Bắc Truyền


Danh từ tên gọi của Thủ Lư theo sách Trung Hoa Phật Quang Văn Hóa Thiên Phật Giáo Dụng Ngữ chép: "Thủ lư là lư hương cầm ở trên tay, còn gọi là Bỉnh hương lư, Thủ lư, Đề lư. Lư hương này thường có cán để cầm dài khoảng hai tấc, có cái dài đến ba tấc, hình dáng có rất nhiều thứ, cuối cán cầm có hình sư tử ngồi, hình hoa sen.v.v... thường được đúc bằng đồng, hay gò bằng thau mạ vàng hoặc làm bằng gỗ...".

Hình dáng của Thủ lư hương như thế nào thì trong sách Pháp Uyển Châu Lâm có ghi chép như sau: "Trời người thường nói lư hương của cổ Phật Ca Diếp làm bằng ngọc Hoàng quỳnh, phía trước có điêu khắc 16 con sư tử và voi trắng, trên đầu hai con thú này nổi lên một tòa liên hoa, đài hoa dùng làm nơi đốt hương, phía sau có một con sư tử ngồi chấn, trên nắp của thủ lư có chín con rồng vây quanh chóp nắp như hoa sen vàng, trong lòng của hoa sen trên kim đài để đầy hương thơm. Khi Phật thuyết pháp thường cầm lư này. Nay xem lại các Thủ lư do người đời sau chế đều mô phỏng theo hình dáng của ngày xưa vậy ".

Hình dáng hiện nay của Thủ lư theo sách Duyệt Độc Toàn Văn chép: "Lư hương được cầm trên tay gọi là Thủ lư hay là Bỉnh hương lư, thường có hình dáng như hoa sen hoặc là hình sư tử tọa chấn và hình đuôi chim hạc... thường được làm bằng đồng, gỗ có khi được làm bằng vàng, bạc hoặc đồng thau mạ vàng..".

Thủ lư được sử dụng trong Phật giáo có từ khi nào? Theo Kinh Tịnh Phạn Niết Bàn chép: "Đức Như Lai cung kính tay cầm Thủ lư, dẫn đầu đoàn đi đưa tang...". Qua đoạn Kinh trên cho ta thấy được Thủ lư được sử dụng trong các nghi lễ Phật Giáo từ rất sớm có từ thời Đức Phật còn tại thếĐức Thế Tôn là người đã từng sử dụng khí cụ đốt hương này.

Thủ lư được dùng trong các nghi lễ cúng dường của Phật Giáo như khi Phật thuyết pháp, cúng dường kinh điển, thế độ xuất gia, sám pháp, pháp hội, truyền giới .v.v...Trong sách Sa Di Đắc Độ chép: "Phàm trên án thờ để lư hương, thủ lư, giới xích, cho đến bỉnh hương lư để cho giới sư khi bạch cầm...".

Kinh Kim Quang Minh quyển thứ 2 phẩm Tứ Thiên Vương chép: "...Phật dạy bốn vị Thiên Vương, mùi hương lan tỏa trùm khắp cung điện Quang Minh, nhưng mùi hương này không phải tỏa ra từ cung điện của Tứ Thiên Vương, vì sao vậy? Mùi hương này là do lúc các vị thiên nhân tay cầm thủ lư cúng dường Kinh mà hương xông cùng khắp...".

Phật Giáo Bắc Truyền tục dùng thủ lư trong khi hành trì các nghi thức Phật Giáo có từ rất sớm, những dấu tích còn lại trên các bích họa đời Đường ở Đôn Hoàng vẽ các vị Bồ tát chư Thiên, cho đến các vị Tăng và các Phật tử cúng dường tay cầm thủ lư. Trong các Phật họa đời Bắc Tống cũng có dấu tích của thủ lư được dùng trong các nghi thức cúng dường. Trong Phật GiáoViệt Nam hầu như pháp hội, đàn tràng đám sám nào có hành các nghi thức nghi lễ truyền thống của thiền gia đều có sử dụng thủ lư.

Trong Căn Bổn Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da quyển 24 chép: "Đảnh lễ chân của Tăng già, tự mình cầm thủ lư, dẫn chúng đi một vòng rồi trở vào trong chùa...". Công dụng của thủ lư là khi cầm lư hương cúng dường không bị người khác làm não loạn, có thể tự cầm hương để chúc nguyện, khi cúng dường có thể đưa lư hương lên đầu thể hiện sự chí thành, thủ lư có thể cầm lâu để hành lễ mà không sợ bị hong nóng. Cầm thủ lư tác thế trang nghiêm thêm phần long trọng cho nghi thức, dùng thủ lư để xông hương cúng Phật là để tăng thêm giá trị cao quý của hương và ý thức trang trọng trang nghiêm của đạo tràng pháp hội.

Dưới đây Ban Biên Tập kính giới thiệu hình ảnh Thủ Lư các nước Phật Giáo Bắc Truyền Việt Nam,Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc:

thu_huong__62_

thu_huong__61_thu_huong__60_thu_huong__59_thu_huong__58_thu_huong__57_thu_huong__56_thu_huong__55_thu_huong__54_thu_huong__53_thu_huong__52_thu_huong__51_thu_huong__50_thu_huong__49_thu_huong__48_thu_huong__47_thu_huong__46_thu_huong__45_thu_huong__44_thu_huong__43_thu_huong__42_thu_huong__41_thu_huong__40_thu_huong__39_thu_huong__38_thu_huong__37_thu_huong__36_thu_huong__35_thu_huong__34_thu_huong__33_thu_huong__32_thu_huong__31_thu_huong__30_thu_huong__29_thu_huong__28_thu_huong__27_thu_huong__26_thu_huong__25_thu_huong__24_thu_huong__23_thu_huong__22_thu_huong__21_thu_huong__20_thu_huong__19_thu_huong__18_thu_huong__17_thu_huong__16_thu_huong__15_thu_huong__14_thu_huong__13_thu_huong__12_thu_huong__11_thu_huong__10_thu_huong__9_thu_huong__8_thu_huong__7_thu_huong__6_thu_huong__5_thu_huong__4_thu_huong__3_thu_huong__2_thu_huong__1_

Ý kiến bạn đọc
19 Tháng Ba 202018:36
Khách
Hồi Thầy Bổn sư kẻ hèn nầy cón Sanh tiền;Người có cho biết theo truyền thuyết hồi xưa chùa Nghèo lắm ko đủ nahng hay bông đèn cầy thắp hết giáp vòng trong chùa[vì chùa xau7 thờ trên dưới 30 bàn ].Do đó vị Trụ trì hay chủ lễ cúng dùng cái Thủ Lư hay còn gọi Thố Lư cấm 1 cây nhang cây Đèn Cầy Nhỏ bằng đầu đủa ăn cơm; hoặc nhánh Bông hay có nơi còn vo miếng Xôi Nếp nhỏ bằng 1/2 viên chè trôi nước hoặc miếng bánh bò ngò hầu dâng cúng giáp vòng chàu mà ko thiếu bàn thờ nào hết.Chư tổ đức hồi xưa huyền biến phương tiện cái nào hình thức nào cũng rất ý nghĩa thâm trầm mà đạo vị đáng bái phục
09 Tháng Tư 201708:26
Khách
Muốn mua 1 chiếc này thì phải đến đâu mua ạ
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4658)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(Xem: 3531)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 7372)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4552)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4600)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7406)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2995)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12317)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 4019)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3826)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4253)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3721)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5103)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6743)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4042)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4166)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5369)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3818)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4562)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3570)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3951)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4418)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5419)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3870)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3971)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3894)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4853)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4545)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4294)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3876)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4670)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4236)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6138)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4626)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4981)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4217)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4868)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5703)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3682)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4072)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4613)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5312)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3158)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4797)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4576)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4314)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4767)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4527)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4623)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7276)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5247)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5031)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4625)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5652)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5303)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4179)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6046)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4746)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4903)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5517)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant