Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiền Định - Dưỡng Chất Chuyển Hóa Tâm

12 Tháng Chín 201300:00(Xem: 11746)
Thiền Định - Dưỡng Chất Chuyển Hóa Tâm

THIỀN ĐỊNH,
DƯỠNG CHẤT CHUYỂN HÓA TÂM

(MIND - ALTERING SUSTENANCE)


Nguyên tác: Marc Kaufman
Việt dịch: Trần Như Mai

mind_and_meditationCác khoa học gia đã tìm thấy Thiền tập đều đặn có thể thay đổi cơ cấu hoạt độnghệ thống kinh mạch bên trong não bộ.

Cuộc nghiên cứu về não bộ đang bắt đầu đưa ra những bằng chứng cụ thể về những gì mà các hành giả Thiền Phật giáo đã xác nhận qua nhiều thế kỷ nay: kỷ luật tinh thầnThiền tập có thể thay đổi cơ cấu hoạt động của não bộ và cho phép con người đạt được nhiều mức độ tỉnh giác khác nhau.

Theo truyền thống thì những trạng thái chuyển biến ấy đã được hiểu theo ngôn ngữ siêu việt như là một cái gì vượt ra ngoài thế giới đo lường vật lý và sự đánh giá khách quan. Nhưng, trong vài năm qua, các nhà nghiên cứu tại Viện Đại học Wisconsin, cùng làm việc với các vị sư Phật giáo Tây Tạng, đã có thể truyền đạt những kinh nghiệm tinh thần ấy thành ngôn ngữ khoa học về các làn sóng điện từ gamma tầng số cao và sự phối hợp đồng thời của não bộ. Và họ đã chỉ rõ thuỳ não trái phía trước đỉnh đầu, vùng ngay sau trán bên trái, là nơi mà hoạt động não bộ liên kết với Thiền định có cường độ cao đặc biệt.

Giáo sư Davidson nói: “Điều mà chúng tôi tìm thấy là các hành giả hành Thiền lâu năm đã chứng tỏ hoạt động não bộ của họ đã đạt đến một tầm mức mà chúng tôi chưa hề thấy trước đây”. Ông là một nhà thần kinh học tại một phòng thí nghiệm mới trị giá 10 triệu đô-la của Viện Đại học, có tên là Phòng Thí Nghiệm W.M.Keck Chuyên Khoa Chụp Hình Chức Năng và Biểu Hiện của Não Bộ.

Ông nói :” Sự luyện tập tinh thần của các hành giả đã mang lại hiệu quả trên não bộ của họ cũng giống như sự tập luyện đánh “gôn” hay quần vợt sẽ nâng cao khả năng giao đấu của các cầu thủ. Điều này chứng tỏ rằng não bộ có thể được luyện tập và thay đổi về mặt sinh học theo những phương cách mà ít người có thể tưởng tượng ra”.

Các khoa học gia thường tin tưởng ngược lại - họ tin rằng sự liên hệ giữa các tế bào não đã được xác lập ngay từ thời thơ ấu và không thay đổi lúc trưởng thành. Nhưng nhận định đó đã chứng tỏ không còn đúng nữa trong thập kỷ vừa qua nhờ những tiến bộ trong kỹ thuật chụp hình não bộ và các kỹ thuật khác. Các khoa học gia giờ đây đã đón nhận khái niệm về sự phát triển liên tục của não bộ và “tính nhu nhuyến của thần kinh não bộ ”.

Giáo sư Davidson nói rằng những kết quả mới nhất về nghiên cứu Thiền định được xuất bản vào tháng 11, trong tập “Những Bài Thuyết Trình Của Viện Hàn Lâm Khoa Học Quốc Gia, đã đưa khái niệm về “tính nhu nhuyến của thần kinh não bộ” tiến thêm một bước nữa bằng cách chứng tỏ rằng việc huấn luyện tâm thức qua Thiền tập

(và có thể những kiểu huấn luyện khác nữa) có thể tự nó thay đổi cơ cấu hoạt độnghệ thống kinh mạch bên trong não bộ.

mindNhững khám phá mới này có lẽ là kết quả của một sự hợp tác lâu dài giữa Giáo sư Davidson và Đức Đạt Lai Lạt Ma của Tây Tạng, một hành giả Phật giáo nổi tiếng nhất thế giới hiện nay. Đầu tiên, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mời Giáo sư Davidson đến viếng thăm trú xứ của Ngài ở Dharamsala ở Ấn Độ vào năm 1992 sau khi Ngài biết được những công trình nghiên cứu mới mẻ của Giáo sư Davidson trong khoa thần kinh học về các tình cảm. Người Tây Tạngtruyền thống lâu đời về Thiền định chuyên sâu, và ngay từ đầu, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tỏ ra quan tâm đến việc cho phép Giáo sư Davidson dùng phương pháp khoa học để khám phá tâm thức của các vị sư đệ tử của Ngài đang lúc hành Thiền. Ba năm trước, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đến thăm phòng thí nghiệm của Giáo sư Davidson trong hai ngày.

Cuối cùng Đức Đạt Lai Lạt Ma đã gởi tám trong số những vị đệ tử đạt đạo nhất của Ngài đến phòng Thí nghiệm của Giáo sư Davidson để họ được nối với máy điện não đồ và máy chụp hình não bộ. Các vị hành giả Thiền Phật giáo trong cuộc thí nghiệm này đã được huấn luyện theo truyền thống Thiền định Nyingmapa và Kagyupa vào khoảng 10,000 đến 50,000 giờ, trong thời gian từ 10 đến 40 năm. Một nhóm khác gồm 10 sinh viên thiện nguyện chưa hề có kinh nghiệm Thiền tập được chọn để so sánh kết quả cuộc thí nghiệm sau một tuần được huấn luyện hành Thiền.

Các vị sư và các thiện nguyện viên đều được gắn một mạng lưới gồm 256 điện cực và được yêu cầu hành Thiền trong những khoảng thời gian ngắn. Suy nghĩ và những hoạt động tinh thần khác được biết là sẽ làm cho dòng điện phát sinh ra những đột biến nhẹ nhưng có thể do lường được, khi những nhóm lớn các tế bào thần kinh truyền tải tín hiệu với nhau. Đó là những tín hiệu mà các điện cực sẽ nhận được.

Giáo sư Davidson đặc biệt quan tâm đến việc đo lường các làn sóng điện từ gamma, đó là những xung điện não bộ quan trọng nhất và có tầng số cao nhất.

Cả hai nhóm được yêu cầu hành Thiền đặc biệt hướng tâm về lòng từ bi vô điều kiện. Giáo lý đạo Phật mô tả trạng thái đó, và điều này cũng là trọng tâm giáo huấn của Đức Đạt Lai Lạt Ma, như là “ thái độ không ngăn ngại sẵn sàng có mặt để cứu độ chúng sinh”.Các nhà nghiên cứu chọn đối tượng chú tâm này vì nó không đòi hỏi tập trung tư tưởng vào những đối tượng, ký ức hay hình ảnh đặc biệt nào, thay vào đó hành giả tu dưỡng một trạng thái hiện sinh được chuyển hóa, đó là lòng từ bi.

Giáo sư Davidson nói kết quả cuộc nghiên cứu rõ ràng chứng tỏ Thiền tập đã kích hoạt tâm thức thuần thục của các vị sư theo những phương cách khác hẳn với các thiện nguyện viên. Điểm quan trọng nhất là các điện cực đã ghi nhận được sự kích hoạt rất tích cực của làn sóng điện từ gamma chuyển động rất nhanh và mạnh mẽ khác thường trong não bộ các vị sư, và tìm thấy các chuyển động của những làn sóng ấy qua não bộ được tổ chức và phối hợp tốt hơn nhiều so với các thiện nguyện viên.

Những thiện nguyện viên chứng tỏ có một sự gia tăng nhỏ trong hoạt động của làn sóng điện từ gamma lúc hành Thiền, nhưng một số vị sư lại có hoạt động của làn sóng điện từ gamma mạnh mẽ hơn bất cứ một người mạnh khỏe bình thường nào đã được ghi nhận từ trước đến nay.

Giáo sư Davidson nói :” Những vị sư hành Thiền thâm niên nhất đã có những làn sóng điện từ gamma đạt mức hoạt động cao nhất”.

 “Sự đáp ứng theo liều lượng” này là điều mà các nhà nghiên cứu tìm kiếm để đánh giá nguyên nhân và kết quả - theo đó một liều lượng thuốc hay mức hoạt động cao hơn sẽ tạo được ảnh hưởng lớn hơn liều lượng ở mức độ thấp.

Trong các cuộc nghiên cứu trước đây, những hoạt động tinh thần như là sự tập trung vào một mục tiêu, ký ức, học tập hay ý thức thường liên kết với kiểu phối hợp hoạt động thần kinh não bộ được nâng cao như đã tìm thấy ở các vị sư. Những làn sóng điện từ gamma mạnh mẽ được tìm thấy ở các vị sư cũng liên hệ đến sự đan kết lại những kinh mạch khác hẳn nhau cũng như liên hệ đến hoạt động tinh thần tích cực hơn và sự tỉnh giác cao hơn.

Công trình nghiên cứu của Giáo sư Davidson cũng phù hợp với kết quả các công trình nghiên cứu của ông trước đây khi ông chỉ rõ thùy não trái phía trước đỉnh đầu là một khu vực của não bộ liên kết với trạng thái vui vẻ và các tư tưởng tình cảm tích cực. Sử dụng máy chụp hình cọng hưởng từ tính (magnetic resonance imaging machine) để chụp hình não bộ các vị sư đang hành Thiền, Giáo sư Davidson đã tìm thấy hoạt động não bộ của các vị sư - được đo lường bằng máy điện não đồ - đặc biệt rất cao ở vùng này.

Từ công trình nghiên cứu này, Giáo sư Davidson kết luận rằng Thiền tập không những thay đổi cơ cấu hoạt động của não bộ trong đoản kỳ, mà rất có thể sản sinh những đổi thay vĩnh viễn. Ông nói, sự khám phá này dựa trên sự kiện là các vị sư đã có hoạt động của làn sóng điện từ gamma cao hơn rất nhiều so với nhóm thiện nguyện viên, ngay cả khi họ chưa bắt đầu hành Thiền theo hướng dẫn của các nhà nghiên cứu.

Sources : The Age - January 9, 2005.
Bài này xuất hiện lần đầu trên báo  
The Washington Post - Jan 3, 2005
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1530)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1662)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1635)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1039)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1514)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1497)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1679)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1946)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1536)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1362)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1373)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1559)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1151)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1272)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1286)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1698)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1650)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3010)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1826)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1367)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1220)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1281)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1414)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1326)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1925)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1692)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1894)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1826)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2393)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1786)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2130)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2239)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2304)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1857)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1981)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2033)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1958)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2595)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1948)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1893)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1947)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1898)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2172)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2313)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1987)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2100)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1888)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1913)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2422)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2326)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 4002)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2490)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3205)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2472)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2049)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1801)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3314)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2348)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3032)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant