Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trung QuốcẤn Độ Tranh Dành Nhau Một Biểu Tượng Phật Giáo

06 Tháng Mười 201300:00(Xem: 6731)
Trung Quốc Và Ấn Độ Tranh Dành Nhau Một Biểu Tượng Phật Giáo

Trung QuốcẤn Độ

tranh dành nhau một biểu tượng Phật Giáo

 

Hoang Phong chuyển ngữ

 

 Tờ nhật báo uy tín Le Monde của Pháp ngày 18 tháng 9 năm 2013, trong mục Địa Lý và Chính Trị và qua một bài viết của ký giả Frédéric Robin đặc phái viên ở New Delhi, đã nêu lên các mưu đồ và tham vọng quốc tế nhằm khai thác thánh địa Phật Giáo Lâm-tì-ni (Lumbini). Dưới đây là phần chuyển ngữ.

 Thật là cả một sự tranh dành ảnh hưởng vô cùng khốc liệt hiện đang bùng lên trong dãy núi Hy-mã-lạp-sơn. Hai nước Trung QuốcẤn Độ đang đối đầu nhau trước biểu tượng của Đức Phật, tượng trưng cho sự đoàn kết giữa các dân tộc Á Châu. Quả thật đây là một cuộc đọ sức không gây ồn ào, thật kín đáo và vô cùng bí mật, tuy nhiên không phải vì thế mà kém phần quyết liệt. Ngoài các mặt trận đã được dàn ra giữa hai siêu cường Á Châu (như sự tranh chấp biên giới, chạy đua về năng lượng, tranh dành ảnh hưởngẤn Độ Dương...) thì một mặt trận mới cũng đang được mở ra với những "đòn chính trị" thật quy mô. Nếu dựa vào cách nói đang thịnh hành trong thời buổi ngày nay thì có thể bảo rằng cuộc tranh dành kín đáo chưa được công bố ấy là cả một mặt trận tranh dành "quyền lực mềm" ("soft power"). "Quyền lực mềm" là một cách mà các siêu cường ngày nay thường sử dụng để thăm dò phản ứng của nhau, ngoài các hình thức biểu dương sức mạnh khác. "Quyền lực mềm" Phật Giáo với một tầm ảnh hưởng rộng lớn mang tính cách toàn cầu là cả một tiềm năng mà bất cứ một quốc gia nào tự cho mình là nước lãnh đạo Á Châu đều phải quan tâm đến.

 Trong các phòng khách sang trọng và kín đáo dưới tầng hầm của một khách sạn năm sao ở New Delhi (thủ đô Ấn Độ) các buổi họp đầu tiên của International Buddhist Confederation (IBC / Liên Đoàn Phật Giáo Thế Giới) đã diễn ra từ ngày từ 9 đến 12 tháng 9 vừa qua, đánh dấu giai đoạn chín muồi của sự tranh chấp trên đây. Trên phương diện chính thức thì IBC (Liên Đoàn Phật Giáo Thế Giới) chỉ giữ vai trò của một tổ thức "Liên Hiệp Quốc Phật Giáo" (Nations Unies du Bouddhisme), tức là một phương tiện nhằm gom tất cả các học phái - Mahayana (Đại Thừa), Hinayana (Tiểu Thừa), Vajrayana (Kim Cương Thừa) - vào một di sản tâm linh chung cho 400 triệu tín đồ trên toàn thế giới. Sự hiện diện trong các buổi họp mặt ở New Delhi của các đại biểu đến từ khoảng bốn mươi quốc gia trên thế giới đã cho thấy một tiếng vang nào đó. Dầu sao thì cũng còn quá sớm để tiên đoán tương lai của IBC. Hiện nay, người ta chỉ có thể biết một cách chắc chắndự án trên đây là do nước Ấn đưa ra - mà người đứng ra tổ chức là Lạt-ma Lobzang, một nhân vật thân cận của triều đại Nehru-Gandhi - không phải chỉ mang mục đích tôn giáo. Chủ đích Địa lý Chính trị (Géopolitique / Geo-policy) hiện ra thật rõ rệt.

 Tổ chức Liên Đoàn Phật Giáo Thế Giới (IBC) do Ấn Độ thành lập là nhằm chống lại các sinh hoạt của một tổ chức khác gọi là World Buddhist Forum (WBF / Diễn Đàn Phật Giáo Thế Giới) dưới sự bảo trợ của Trung Quốc. Diễn Đàn này được thành lập sau các buổi hội họp được tổ chức ở Hàng Châu (Hangzou) trong vùng phía nam Thượng Hải (Shanghai) vào năm 2006. WBF (Diễn Đàn Phật Giáo Thế Giới) là một công cụ mà Bắc Kinh sử dụng để o bế (trong nguyên bản là chữ amadouer / coax / vuốt ve) các tập thể Phật Giáo bằng cách hứa hẹn một sự đỡ đầu thân thiện. Tổ chức này nằm trong chính sách ngoại giao tích cực nhân danh Phật Giáo, được đưa ra liên tiếp từ mười năm nay qua các cuộc triển lãm lưu động về chiếc "răng" và đốt "ngón tay" Phật, được xem là xá lợi của chính Đấng Giác NgộTrung Quốc đang lưu giữ. Năm 2012 trong lần họp thứ ba của WBE tổ chức tại Hồng Kông, một mảnh xương sọ được xem là của chính Đức Phật - khám phá ra hai năm trước đó ở Nam Kinh (Nankin) - được đưa ra trưng bày một cách trang trọng.

 

Địa lý Chính Trị trong vùng Hy-mã-lạp-sơn là cả một sự thách đố

 

 Nhìn qua thì các buổi họp của Diễn Đàn Phật Giáo Thế Giới (WBF) do Bắc Kinh giật dây cũng không đến nỗi nào thua kém so với các buổi họp của Liên Đoàn Phật Giáo Thế Giới (IBC) được tổ chức ở New Delhi (do Ấn Độ chủ xướng). Tuy nhiên thật hết sức khó cho tổ chức Diễn Đàn Phật Giáo Thế Giới (WBF) vượt xa hơn biên giới của các nước thuộc khối Trung Quốc (gồm Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan và các cộng đồng Đông Nam Á), trong khi đó thì Liên Đoàn Phật Giáo Thế Giới (IBC) đã mở ra một chân trời rộng lớn hơn. Sự khác biệt trên đây một phần là do ảnh hưởng của vấn đề Tây Tạng. Trong các buổi họp của Diễn Đàn Phật Giáo Thế Giới (WBF / do Trung Quốc tổ chức), Gyancain Norbu tức là vị Panchen-lama [nhân vật đứng hàng thứ hai trong Phật Giáo Tây Tạng - ghi chú trong nguyên bản] do Bắc Kinh chọn lựa (được chỉ định là vị tái sinh của vị tiền nhiệm)cố tình mang ra dàn cảnh. Những người ủng hộ Đức Đạt-Lai Lạt-Ma tức là vị lãnh đạo tối cao của Phật Giáo Tây Tạng đang lưu vong ở Dharamsala (Ấn Độ), không hề công nhận sự hợp pháp của vị này. Một trong các chủ đích của Diễn Đàn Phật Giáo Thế Giới (WBF / do Trung Quốc tổ chức) là mang Panchen-lama thứ XI ra trưng bày trước cộng đồng thế giới với mục đích hy vọng có thể chính thức hóa vị này, thế nhưng hy vọng đó cho đến nay thật hết sức mong manh. Qua những bài diễn văn yêu nước cho rằng xứ sở Nóc Nhà của thế giới (tức là nước Tây Tạng) thuộc lãnh thổ Trung Quốc do chính Panchen-lama đọc lên cho thấy vị này là người ủng hộ Bắc Kinh. Trong khi đó những người trung thành với Đức Đạt-Lai Lạt-Ma lại hiện diện đông đảo hơn trong tổ chức Liên Đoàn Phật Giáo Thế Giới (IBC) đặt trụ sở ở New Delhi. Trên thực tế IBC đã dựa vào ánh hào quang tỏa rộng mà vị "Đại Dương Trí Tuệ" (tức là Đức Đạt-Lai Lạt-Ma XIV) đã tạo được cho toàn thể gia đình Phật Giáo với những biên giới rộng lớn, vượt xa hơn tầm ảnh hưởng của các học phái Phật Giáo Tây Tạng.

 Giữa cảnh tranh dành đó, mỗi quốc gia (tức Trung Quốc và Ấn Độ) đều tìm cách đưa ra đủ mọi bằng chứng nhằm dành chính nghĩa về phần mình. Trung Quốc không ngớt hô hào rằng mình là quốc gia có số tín đồ Phật Giáo đông đảo nhất thế giới. Về phía Ấn Độ, nơi mà Phật Giáo đã bị Ấn Giáo đông đảo hơn lấn lướt qua nhiều thế kỷ, thì cho rằng Đức Phật đã được sinh ra trên đất Ấn. Phái bộ Azoka giữ trọng trách tổ chức IBF ở New Delhi tuyên bố rằng "Ấn độ chính là cội nguồn của Phật Giáo". Sự khẳng định trên đây cần phải được xét lại, bởi vì Lâm-tì-ni nơi Đức Phật đản sinh vào thế kỷ thứ VI trước Tây Lịch, thật ra là thuộc lãnh thổ của nước láng giềng Nepal, và người dân Nepal thì không hề tán đồng sự mạo nhận đó của Ấn Độ. Dầu sao các thánh địa khác của Đức Phật và các đệ tử của Ngài - chẳng hạn như Bồ-đề Đạo Tràng (Bod Gaya), Tiên Uyển (Sarnath), Na-lan-đà (Nalanda)... - rõ ràng là thuộc vào lãnh thổ Ấn, và New Delhi bắt đầu đẩy mạnh các kế hoạch khai thác ngành du lịch tâm linh.

 Chính trong lãnh vực này đang diễn ra một trận đấu thật ngoạn mục giữa Trung QuốcẤn Độ xoay quanh "quyền lực mềm" Phật Giáo. Nhằm đối đầu với con đê khổng lồ của Ấn Độ, Trung Quốc đã bọc hậu và tràn ngập phía sau các thánh địa. Năm 2011, Tổ Chức Phi Chính Phủ (Organisation Non Gouvernementale, ONG / Non-governmental Organisation, NGO) đặt tại Hồng Kông liên hệ với Bắc Kinh là Asia Pacific Exchange and Corporation Foundation (APECF / Cơ Quan Trao ĐổiHợp Tác giữa các Quốc Gia Á Châu trong vùng Thái Bình Dương) đề nghị với người Nepal là sẽ đầu tư 3 tỉ đô-la (2,25 tỉ euros) - tương đương với 85% thuế thu nhập của toàn xứ Nepal - để "phát triển" thánh địa Lâm-tì-ni, nơi đản sinh của Đức Phật. Sáng kiến này bất ngờ làm bùng lên một sự hăng say trong toàn vùng Hi-mã-lạp-sơn. APECF (tức Cơ quan trao đổihợp tác trên đây) chọn ngay Pushpa Kamal Dahal làm người đại diện cho chương trình trên đây ở Nepal, nhân vật này mang bí danh"Prachanda", nổi tiếng là một người khuấy động, trước đây từng là thủ lãnh của nhóm cựu-nổi-loạn theo chủ nghĩa Mao (Maoism) đã được hợp thức hóa sau hiệp ước hòa bình ký kết vào năm 2006. Prachanda cũng đã từng làm thủ tướng Nepal vào các năm 2008 và 2009.

 

Có quá nhiều dự án


 Trùng tu Lâm-tì-ni là một câu chuyện cũ mèm, thế nhưng gần đây lại được hâm nóng trở lại. Câu chuyện bắt đầu từ năm 1970 khi một kiến trúc sư người Nhật là Kenzo Tange dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc đã đưa ra một dự án về vấn đề này. Thế nhưng sự nhiệt tâm ban đầu đã bị sa lầy nhanh chóng trong các ngõ ngách quan liêu của xứ Nepal và tình trạng bất ổn nội bộ của một xứ sở bé tí nằm kẹt giữa Trung QuốcẤn Độ trong vùng Hy-mã-lạp-sơn. Năm 2010, bỗng dưng người ta lại quan tâm đến Lâm-tì-ni với sự hình thành của một dự án mới, do một nhóm người Mã Lai gốc Trung Quốc theo Phật Giáo Tây Tạng đưa ra. Dự án này nhằm biến Lâm-tì-ni thành một nơi du lịch đại chúng dành vào việc hành hương, tương tự như thánh địa Mecca (La Mecque / Mecca) của người Hồi Giáo.

 Thật rõ ràng đây là một dự án "ăn cắp" của Cơ Quan Trao ĐổiHợp Tác giữa các Quốc Gia Á Châu trong vùng Thái Bình Dương (APECF) do Trung Quốc giật dây. Bề ngoài chương trình này được điều hành bởi một nhân vật rất bí mật tên là Xiao Wunan dưới sự chỉ đạo của các cấp cao trong Đảng Cộng Sản Trung Quốc, và được đẩy mạnh trong các cộng đồng người Hoa vùng Đông Nam Á. Sự giao hảo thân thiện với nhóm nổi loạn theo chủ nghĩa Mao của Nepal do Prachanda lãnh đạo cho thấy APCEF phải chịu một áp lực nào đó và đã biến thành một sức mạnh đang lên trong bối cảnh sôi sục của thánh địa Lâm-tì-ni. Mùa xuân năm 2011, lại thấy xuất hiện hai nhân vật mới đưa ra một dự án khác, thế nhưng dự án này lại cũng chỉ là một sự vay mượn cả đường lẫn bột với dự án của người Mã Lai trước đây, chỉ khác là được hậu thuẫn bởi một sức mạnh chính trị quan trọng hơn nhiều. Vài tháng sau đó thì một diễn viên thứ ba lại xuất hiện: đấy là kiến trúc sư Hàn Quốc Kwaak Young Hoon, là một người đã từng quan tâm đến Lâm-từ-ni từ lâu trước đó. Người kiến trúc sư này được sự ủng hộ của Korea International Cooperation Agency (KOICA / Cơ Quan Hợp Tác Quốc Tế Hàn Quốc) là một cơ quan trực thuộc chính quyền Seoul (Nam Hàn).

 Tóm lại hiện nay đang có quá nhiều dự án liên quan đến Lâm-tì-ni nơi đản sinh của Đức Phật. Giữa cảnh hỗn độn đó, vào năm 2002 lại bắt đầu xảy ra các cuộc tiếp xúc giữa các nhóm trên đây với mục đích phối hợp các sáng kiến theo các đường hướng khác nhau nhằm tìm cách lôi kéo sự chú ý của Liên Hiệp Quốc. Chẳng phải là di tích Lâm-tì-ni đã được cơ quan UNESCO đưa vào danh sách di sản của nhân loại hay sao? Thế nhưng trong đầu óc mỗi người hình như đều phát sinh một thứ cảm tính nghi ngờ cho rằng chắc hẳn phải có những âm mưu nào đó tàng ẩn phía sau những sự lèo lái trên đây. Thế nhưng ai lèo lái ai? Và ai tìm cách hất chân ai? Chính Kwaak Young Hoon (kiến trúc sư Hàn Quốc trên đây) đã từng tiết lộ một giai thoại cho báo Le Monde với mục đích thăm dò mức độ nghi ngờ đang tàng ẩn kín đáo trong bối cảnh trên đây. Khi vừa mới gia nhập vào cuộc chạy đua này, vị kiến trúc sư Nam Hàn đã nhận được ngay một thông điệp của một vị Bộ Trưởng trong chính quyền Katmandou (Nepal) - tất nhiên là dưới áp lực của nhóm nổi loạn theo chủ nghĩa Mao - phải trưng ra bằng cớ sẽ "không chống lại Trung Quốc". Kiến trúc sư Kwaak đành phải tuyên bố rằng mình "không chống Trung Quốc".

 

"Đức Phật là người Ấn"

  Trước những sự việc xảy ra trên đây, Ấn Độ cũng bắt đầu cảm thấy nao núng trước sự khuấy động của tổ chức APCEF thiên Bắc Kinh. Vị chủ tịch Indian Council for Cultural Relations (ICCR / Hội Đồng Quan Hệ Văn Hóa Ấn Độ) và đồng thời cũng kiêm nhiệm chức chủ tịch văn phòng Ngoại Giao của Đảng Quốc Đại (Parti du Congrès / Congress Parti / một đảng chính trị quan trọng của Ấn Độ) hiện đang cầm quyền, là Karan Singh đã lên tiếng như sau: "Ấn Độ sẽ không thể làm ngơ trước các công trình phát triển Lâm-tì-ni", tất nhiên điều này cho thấy rằng việc phát triển Lâm-tì-ni là một trong những công cụ nhằm củng cố "quyền lực mềm" của Ấn Độ. Thế nhưng vị chủ tịch Singh thì lại xác nhận rằng lý do chính thức là vì "Đức Phật là người Ấn Độ". Dầu sao thì sự kiện này còn là - hay đúng hơn nhất thiết là - một kế hoạch chiến lược.

 Dưới con mắt của người Ấn, tham vọng của Trung Quốc về một vùng thánh địa Phật Giáo nổi tiếng là Lâm-tì-ni, chỉ cách biên giới của Ấn vài cây số, là cả một sự thách thức lớn lao trên phương diện địa lý chính trị. Phải chăng một mối bức xúc cũng đang bùng lên trong chính quyền New Delhi hay chăng? Người Ấn rất e ngại là nếu dự án của Cơ Quan Trao ĐổiHợp Tác giữa các Quốc Gia Á Châu thuộc Thái Bình Dương APCEF (thân Trung Quốc) thành công thì tất nhiên Trung Quốc cũng sẽ gây được ảnh hưởng đối với các nhà sư trong vùng Hy-mã-lạp-sơn, nhằm chờ đợi sau này khi Đức Đạt-Lai Lạt-Ma viên tịch sẽ kiểm soát toàn bộ cộng đồng người Tây Tạng. Một viên chức cao cấp của chính phủ Ấn Độ trước đây là Jayadeva Ranade hiện đang được thu dụng trở lại trong việc phân tích chiến lược, đã tỏ ra rất lo ngại khi tuyên bố rằng: "Trung Quốc có thể sẽ mượn Lâm-tì-ni để thành lập một đạo quân thứ năm dàn ra trước cửa ngõ của nước Ấn"

 Dự án của APECF cũng đã cho thấy một vài dấu hiệu đuối sức - thế nhưng chắc là sẽ không bị hủy bỏ - lý dotình trạng thù địch đang nghiêm trọng. Các người Phật Giáo Nepal hết sức bực tức vì tất cả hai bên đều không hề quan tâm đến họ, do đó họ cũng huy động các lực lượng trong tay mình để chống lại "âm mưu cướp đất" (spoliation foncière / land dispossession) đang hăm dọa tập thể người địa phương (tức sắc tộc Tharu) đang sinh sống chung quanh Lâm-tì-ni trong vùng đồng bằng Teraï. Dù chỉ mang tính cách địa phương, thế nhưng Ấn Độ không hề nhìn phong trào trên đây với con mắt bàng quang. Một thành viên Phật Giáo thuộc phong trào này ở New Delhi thú nhận rằng: "Người Ấn giúp đỡ chúng tôi trên mặt tinh thần". Mọi sự hiện nay cũng đã trở nên sáng tỏ hơn, và một vị lãnh đạo Phật Giáo Nepal cũng đã từng tuyên bố như sau: « Lâm-tì-ni đã trở thành tâm điểm của cả một « cuộc chơi lớn » giữa Ấn ĐộTrung Quốc ». Nơi đang gây ra chấn động và cơn sốt trên đây cũng là điểm gặp nhau giữa những người tu hành, những tay khuấy động thừa cơ nước đục thả câu, các chính trị gia, các nhà tranh đấu bản địa (người dân thiểu số thuộc các sắc tộc địa phương), và cả một bọn trục lợi cá mè một lứa.

 

Vài lời ghi chú của người dịch

 

 Lâm-tì-ni nằm trong vùng đồng bằng Taraï phía nam xứ Nepal và là nơi đản sinh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Năm 249 trước Tây Lịch vua A-dục và nhà sư Ưu-bà-cúc-đa (Upagupta) vừa là thầy vừa là quốc sư của đế quốc của ông, cả hai cùng đến viếng Lâm-tì-ni, lúc đó là một ngôi làng trù phú. Vua A-dục cho xây dựng tại nơi này bốn ngôi chùa và một trụ đá cao sáu thước. Trên trụ đá có khắc một câu như sau: " Vị vua yêu quý của các thiên nhân là Piyadasi (một tên khác của vua A-dục) đã đích thân đến viếng nơi này vào năm thứ 20 sau ngày đăng quan. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã sinh ra tại nơi đây...". Dựa vào các chi tiết khác khắc trên trụ đá thì Đức Phật sinh vào năm 623 trước Tây Lịch.

 Ngược về bốn thế kỷ trước đó, tức là trước khi vua A-dục và nhà sư Ưu-bà-cúc-đa đến đây thì ngôi làng Lâm-ti-ni là một khu vườn rộng lớn thuộc xứ Kiều-tát-la (Kosala) của nhà vua Tịnh Phạn (Suddodhana). Kinh sách bằng tiếng Pa-li cũng như bằng tiếng Phạn đều có nói đến khu vườn này và cho biết đây là một khu vườn mênh mông, thật thanh tú và có trồng nhiều cây sala. Sala tên khoa học là Shorea robusta trổ hoa rất đẹp.

 Hôm ấy là giữa tháng năm và cũng vào giữa mùa xuân, nơi kinh đô Ka-tì-la-vệ (Kapilavastu) hoàng hậu Mai Da (Maya Devi) vợ vua Tịnh Phạn, dù đang có mang thế như vẫn quyết định về thăm cha mẹ sinh ra mình ở thị trấn Devahada. Nào có ai ngờ được là quyết định bất ngờ ấy của một bà hoàng hậu một xứ bé tí thu mình duới chân dãy Hy-mã-lạp-sơn đã đánh dấu một biến cố lớn trong lịch sử nhân loại. Đi được nửa đường, Hoàng hậu và các người tùy tùng dừng lại nghỉ trong khu vườn Lâm-tì-ni xinh đẹp. Trong khu vườn có xây một hồ nước trong để dân chúng trong vùng đến tắm. Hoàng hậu và một vài người hầu cũng xuống tắm. Sau đó hoàng hậu ngồi tựa vào một gốc cây sala nghỉ ngơi. Thế rồi hoàng hậu bỗng nhiên cảm thấy chuyển bụng. Bà bèn đứng lên, một tay nắm chặt một cành cây sala, một tay quàng vai một người hầu và sinh ra thái tử Tất-đạt-đa Cồ Đàm từ "bên cạnh sườn" (xem hình). Đứng để sinh đẻ là một tập tục lâu đời ở Á Châu và gần đây vẫn còn thấy ở một vài sắc tộc.

 lam_ty_ni

 

 Thái tử Tất-đạt-đa không sinh ra trong chốn cung điện mà sinh ra dưới một gốc cây trong khu vườn Lâm-tì-ni như bất cứ một kẻ vô gia cư nào khác. Ba mươi lăm năm sau vào giữa mùa xuân và cũng vào một đêm giữa tháng năm trăng tròn, dưới một gốc cây trong một khu rừng hoang vắng, thái tử Tất-đạt-đa đạt được Giác Ngộtrở thành một vị Phật. Đức Phật thuyết giảng lần đầu cũng dưới một gốc cây nơi khu vườn Tiên Uyển (Sarnath). Tám mươi tuổi, kiệt lực, Đức Phật cũng lại nằm xuống đất giữa hai gốc cây trong một khu rừng.

 Từ ngày lánh xa thế tục, Đức Phật chỉ có hai manh áo cà sa thay đổi trên người, một chiếc bình bát trên tay, và đi chân đất để khất thực. Ngài luôn dừng lại bên ngoài các khu đô thị hầu tránh xa các cảnh bon chen. Ngoài giáo lýĐức Phật đã để lại cho nhân loại, chính cuộc sống của Ngài cũng là một tấm gương cho chúng ta cùng soi. Một người tu tập chân chínhcảm thấy khiếp sợ - nếu không muốn nói là kinh hoàng - khi đọc những gì mà bài báo trên đây đưa ra hay không? Rồi đây, Lâm-tì-ni sẽ trở thành một nơi đô hội, một bãi chiến trường giữa những kẻ âm mưu, một nơi hội tụ của những kẻ thừa cơ nước đục... Ai sẽ thắng, và ai sẽ thua? Hàng nghìn khách sạn sẽ mọc lên, ngành du lịch tâm linh ở Lâm-tì-ni sẽ trở thành một kỹ nghệ béo bở. Thánh địa Lâm-tì-ni sẽ trở thành một "quyền lực mềm" của một quốc gia lãnh đạo nào hay một chủ nghĩa chính trị nào đây?

 Một vài tư liệu cho biết rằng vua A-dục bãi bỏ thuế khóa cho ngôi làng Lâm-tì-ni, trong khi đó một vài tư liệu khác thì lại cho rằng nhà vua này chỉ giảm thuế, dầu sao đi nữa thì đấy cũng không hề là một biện pháp trục lợi. Thật vậy chủ đích chính yếu của bốn ngôi chùa và trụ đá của vua A-dục là để biến Lâm-tì-ni thành một trong những nơi hành hương mang lại những xúc cảm tinh khiết cho những người tu hành chân chính hầu giúp họ đến gần với Đức Phật hơn. Vào thế kỷ thứ IV có một nhà sư Trung Quốc khác thường là Pháp Hiền, quyết tâm sang Ấn Độ để tu học. Ông khởi hành bằng đường bộ và rời Trường An năm 399, đi xuyên qua sa mạc Gobi, các vùng Tân Cương, Khotan, và sau đó là Afghanistan và Pakistan ngày nay... Ông đi ngang làng mạc và đô thị, nơi nào cũng theo Phật Giáo, dân chúng tổ chức các lễ hội thật vui và long trọng.

 Pháp Hiền đến lãnh thổ Ấn năm 402. Ông lưu lại trong vùng thung lũng sông Hằng để tu học và viếng các nơi thắng tích Phật Giáo. Sau đó ông quay lại các vùng Peshawar, Kaboul thuộc Afghanistan ngày nay để viếng thăm các vùng Phật Giáo này. Trước khi quay về Trung Quốc ông xuống miền nam nước Ấn và đến Tích Lan, nơi đây ông khám phá ra nhiều kinh sách chưa hề có ai ở Trung Quốc biết đến. Năm 413 ông rời Tích Lan bằng đường biển để trở về quê hương. Trên đường ông suýt chết vì ghe bị đắm. Ông ghé được vào đảo Java của Indonesia, và tại nơi này ông gặp nhiều người đồng hương sang đây tu học. Lúc đó đảo Java chưa có ngôi đền Borobudur, vì ngôi đền nổi tiếng này chỉ bắt đầu được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ VIII. Sau đó ông lại tìm ghe khác để trở về Trung Quốc. Trong chuyến trở về quê hương này có thêm bốn nhà sư khác tháp tùng, thế nhưng chỉ có mình ông là sống sót và về đến được Trường An vào năm 414. Ông để ra hai năm để viết quyển hồi ký mang tựa là "Phật Quốc Ký" thuật lại cuộc hành trình mười lăm năm của mình ở Ấn ĐộTích Lan. Vài năm sau đó thì ông qua đời.

 Hành hươngtu họcý chí và lòng nhiệt tâm của một con người và đôi khi cũng là lý tưởng của cả một đời người. Sự thúc đẩy đó không cần đến sự hậu thuẫn của các diễn đàn, liên đoàn, ngân hàng, hay sự hậu thuẫn chính trị của các đảng phái hoặc một quốc gia nào cả, cũng không cần đến các tổ chức du lịch đan vào nhau như một mạng lưới ở khắp các quốc gia Phật Giáo. Chắc hẳn rồi đây chúng ta sẽ có thể đến viếng Lâm-tì-ni thật dễ dàng theo các tour du lịch rẻ tiền. Trong số những người hành hương tất sẽ có những người thật thà, dành dụm chắt chiu để cúng dường, hầu góp phần mang lại lợi nhuận cho những số vốn đầu tư hàng tỉ đô-la. Thế nhưng cũng có những người giàu có cúng dường để trấn an lương tâm mình. Dầu sao thì chúng ta cũng rất có thể sẽ đến Lâm-tì-ni bằng các tour du lịch với chương trình một hoặc hai tuần có người hướng dẫn chuyên nghiệp có thể nói được nhiều ngôn ngữ khác nhau, nhằm giúp chúng ta cầu xin được thêm một ít phước lành. Có mấy ai nhớ được là Đức Phật sinh ra dưới một gốc cây ở một nơi cách biệt với cung điện của vua cha, và sau này chỉ có một bình bát trên tay, thì làm thế nào ban phước lành và sự giàu có cho chúng ta được. Âu châu văn minh ngày nay cũng chẳng khá hơn, chẳng hạn như ở một nước rất sùng đạo, trong các vùng thôn quê, làng này đồn đại và rỉ tai là làng kia có xảy ra phép lạ nhờ đi hành hương và uống nước thánh. Bọn trục lợi quả thật khéo léo và tài tình, xe của các tour du lịch đầy ắp những người nông dân chất phác và những người lớn tuổi thật thà. Các nước có thánh địa tiếp rước hàng triệu du khách mỗi năm, mạng lưới du lịch tâm linh thật nhộn nhịp khắp Âu Châu và thế giới. Hình ảnh những người hành hương thành kính thường xuyên được đưa lên thật khéo léo trên truyền hình. Đấy vừa là "quyền lực mềm" vừa là một nguồn tài chính khổng lồ cho một số quốc gia Ấu Châu. Cái mô hình đó đang được xuất cảng sang Á Châu.

 Vào thế kỷ thứ VII, giữa thời kỳ vàng son của nền văn minh Trung Quốc và sự phát triển cao độ của Phật Giáo ở xứ sở này, người ta lại thấy có một nhà sư khác thường khác là Huyền Trang. Ông rời Trường An vào năm 629 sang Ấn hành hương và tu học. Ông đi ngang các vùng Tây Vực theo Phật Giáonhà sư Pháp Hiền đã đi ngang trước đó hơn hai thế kỷ. Vào thời kỳHuyền Trang đi ngang các vùng này thì nhiều nơi đã hoặc đang trở thành Hồi Giáo. Bởi vì tôn giáo này được hình thành ở nước Á Rập Saudi vào thế kỷ thứ VII đang phát triển rất nhanh trong toàn vùng Trung và Cận Đông. Nói chung thì những gì nhà sư Huyền Trang trông thấy đấy là những hiện tượngPhật Giáo gọi là vô thường.

 Huyền Trang quay về Trung Quốc mười sáu năm sau tức là vào năm 645. Ngoài số kinh sách mang về còn có một quyển nhật ký của ông mang tựa là " Đại Đường Tây Vực Ký" ghi chép những gì do chính ông tai nghe mắt thấy nơi xứ sở của Đức Phật và các nơi thắng tích trong thung lũng sông Hằng. Hai quyển sách "Phật Quốc Ký"" Đại Đường Tây Vực Ký" trên đây là hai tài liệu vô giá về Phật Giáo trên đất Ấn và cả lịch sử của quốc gia này. Quyển "Phật Quốc Ký" của Pháp Hiền được dịch sang tiếng Pháp và tiếng Anh rất sớm từ hậu bán thế kỷ XIX.

 Một nhà khảo cổ người Đức là Alois-Anton Führer dựa vào quyển "Phật Quốc Ký" của Pháp Hiền đã tìm được vị trí của Lâm-tì-ni vào năm 1896. Một năm sau người ta tìm thấy trụ đá và sau đó là các lớp nền của bốn ngôi chùa do vua A-dục xây dựng. Khởi đầu Lâm-tì-ni là một khu vườn thanh tú dưới triều đại của vua Tịnh Phạn, sau đó đã trở thành một ngôi làng trù phú và một thắng tích thiêng liêng dưới triều đại của vua A-dục, và sau cùng là một vùng hoang sơnghèo nàn khi nhà khảo cổ Alois-Anton Führer đến đây.

 Vào thế kỷ XIV nhà vua Ripu Malla của xứ Nepal hành hương nơi này và đã cho ghi khắc thêm trên trụ đá của vua A-dục một câu đánh dấu cuộc viếng thăm của mình, và đấy cũng là dấu tích lịch sử cuối cùng của Lâm-tì-ni. Lý do của sự yên lặng hay quên lãng đó của Lâm-tì-ni cũng không phải là quá khó hiểu. Các đạo quân Hồi Giáo tràn vào đất Ấn vào thế kỷ XII đã sử dụng mọi phương tiện để tận diệt Phật Giáo và cả Ấn Giáo. Thế nhưng đối với Ấn Giáo thì hình như các đạo quân Hồi Giáo có phần nương tay hơn. Có thể là vì Ấn Giáo cũng là một tín ngưỡng tin vào Thánh Kinh và một Đấng Toàn Năng gần tương tự như Hồi Giáo? Một lý do khác là Ấn Giáo là một tín ngưỡng mang tính cách đại chúng, sự sinh hoạt ăn sâu vào gia đình và làng mạc, trong khi đó thì Phật Giáo có những tổ chức tập thể lộ liễu hơn, chẳng hạn như tăng đoàn của đại học Na-lan-đà gồm hơn mười ngàn nhà sư. Sau thế kỷ XIII có thể nói là Phật Giáo đã hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ, trong khi đó thì Ấn Giao hồi phục nhanh hơn. Tóm lại Lâm-tì-ni chìm sâu trong sự quên lãng của lịch sử kể từ thế kỷ XV cho đến khi nhà khảo cổ người Đức tìm đến nơi này vào cuối thế kỷ XIX.

 Có một nhân vật trong lịch sử Phật Giáo ít người chú ý đến, thế nhưng lại là một trong những nhân vật có công lớn nhất và không thể nào chối cãi được, ấy là vị quốc sư Ưu-bà-cúc-đa dưới triều đại của vua A-dục. Ông không nổi danh như Long Thụ, Vô Trước, Bồ-đề Đạt-ma, Huệ Năng hay Đạo Nguyên... Thật vậy ông không phải là một luận sư hay triết gia và cũng không hề sáng lập ra một học phái nào cả, thế nhưng chính ông là người đã giúp vua A-dục đến gần với Phật Giáo, đã khuyên vua A-dục xây cất hàng chục ngàn bảo tháp để phân tán xá lợi ra khắp mọi nơi trong đế quốc của mình giúp người dân đến gần với Đạo PhápĐức Phật hơn. Thật vậy các phương tiện di chuyển của hơn hai ngàn năm trước có phải như ngày nay đâu. Ưu-bà-cúc-đa cũng là người chủ xướng việc kết tập Đạo Pháp lần thứ ba và cũng đã chủ tọa đại hội này để thanh lọc những gì thêm thắtdị đoan trong một giai đoạn phát triển hỗn tạp và quá nhanh của Phật Giáo, nhờ vào sự ưu đãi của hoàng triều A-dục. Chinh là nhờ vào lần kết tập này, Luật TạngKinh Tạng được hình thành thật tinh khiết và được truyền bá đi khắp nơi. Nếu Ưu-bà-cúc-đa đã đứng bên cạnh vua A-dục khi nhà vua này ra lệnh xây dựng bốn ngôi chùa và trụ đá ở Lâm-tì-ni, thì ông cũng đã đứng sau lưng vị vua này trong các chương trình hoằng Pháp xa hơn thung lũng sông Hằng và bên ngoài biên giới của đế quốc Maurya. Sự âm thầm và khiêm tốn đó của một nhà sư chân chính thật hết sức tương phản với các âm mưu và những sự khuấy động của các nhân vật như Pushpa Kamal Dahal, Kenzo Tange, Xiao Wunan, Kwaak Young Hoon, Karan Singh, Jayadeva Ranade... và cả đám trục lợi cá mè một lứa, do ký giả Frédéric Robin nêu lên trong bài báo trên. "Vinh dự" duy nhất mà Ưu-bà-cúc-đa có lẽ cũng không mong muốn và cũng không hề chờ đợi, là sau này người ta xếp ông với ít nhiều gượng ép, đứng vào hàng thứ năm trong danh sách các vị tổ của Thiền Tông.

 Cách nay ít lâu người dịch có viết một bài ngắn về "Câu chuyện một con đường", thuật lại cuộc hành trình của một người tu tập. Trên con đường đó có những người đi ngược chiều mà người tu tập phải tránh ra để không đâm sầm vào họ. Hai bên vệ đường diễn ra những cảnh cướp giật, đâm chém, bom nổ, nhà cháy, cầu sập, có những sòng bài, nhà hát tấp nập và cả những hố sâu, vực thẳm... Chúng ta không nên dừng lại để tham gia vào những thứ ấy, cũng không nên kéo nhau ra hai bên vệ đường để tả xung hữu đột. Nói thế không có nghĩa Phật Giáo là một tín ngưỡng chủ trương phải bịt tai, bịt mắt và bịt miệng tương tự như hình ảnh của ba con khỉ. Bước vào con đường tức đã là một một sự dấn thân rồi, thế nhưng sự dấn thân ấy không hề bắt buộc chúng ta phải mù quáng, trái lại chúng ta phải nhìn thấy những gì đang xảy ra ở hai bên vệ đường hầu giúp chúng ta ý thức được là mình phải nhanh chân và bước những bước vững chắc hơn. Và đấy cũng chính là mục đích của bài chuyển ngữ bé nhỏ này.

 

Bures-Sur-Yvette, 26.09.13

Hoang Phong chuyển ngữ

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1530)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1661)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1634)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1037)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1514)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1497)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1679)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1945)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1535)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1362)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1373)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1558)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1151)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1272)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1286)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1697)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1650)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3008)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1826)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1366)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1220)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1281)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1413)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1325)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1925)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1692)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1894)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1824)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2393)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1786)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2130)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2237)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2302)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1855)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1979)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2032)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1958)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2595)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1948)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1892)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1946)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1898)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2172)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2312)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1986)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2099)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1888)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1913)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2421)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2326)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 4002)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2489)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3205)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2471)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2048)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1800)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3313)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2347)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3032)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant