Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 2: Thượng Sư

24 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 10304)
Chương 2: Thượng Sư


THƯỢNG SƯ
 
Quá khứvô số Đức Phật xuất thế,chúng ta đã không có đủ phước báu để gặp gỡ. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã đến với cõi đời ác trược này để hóa độ chúng sanh trong thời Mạt Pháp. Ngài đã thị hiện xuống thế gian này cách đây trên 2500 năm trước và từ đó đến nay đã khai hiển chánh đạo nhằm giải thoát sự đau khổ luân hồi cho vô số chúng sanh.

Tuy nhiên,chúng ta không có phước báu để được Đức Phật trực tiếp dẫn dạy; do vậy,tâm niệm vẫn còn phàm phu chưa được thuần thục.Tại Ấn ĐộTây Tạng đã từng có biết bao vị đạo sư đã đến được cảnh giới giác ngộ viên mãn.Nhiều vị khác cũng đã đạt đến trình độ liễu ngộ cao thâm trong khi một vài vị khác chỉ mới cất bước hướng theo con đường giác ngộ.

Giáo pháp đã hiện diện cách đây từ nhiều thế kỷ; nhưng điều quan trọng trong sự hiện diện của giáo pháp không phải ở chỗ là sự lưu truyền có được miên viễn hay không,mà ở chỗ là Phật pháptồn tại trong lòng chúng ta hay không,có sống động trong hành vi của chúng ta hay không?Nếu chúng ta hài lòng chỉ vì giáo pháp hãy còn hiện hữu trên thế gian thì sẽ có nguy cơ bị hủy hoại vì không còn ai có thể thuyết giảng bằng kinh nghiệm thực tư của chính mình nữa.Ngài Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 13 sau khi viên tịch năm 1933,người Tây Tạng đã tự cách ly.Mặc cho sự canh tân rộng lớn của nhiều quốc gia khác trên thế giới,người Tây Tạng lại tự cô lập lấy mình và đó là nguyên nhân mở đường cho Trung Quốc xâm lược Phật giáo Tây Tạng hiện nay nhược điểm bị suy thoái từ sau cuộc lưu ly thất tán của toàn dân; do vậy, điều quan yếu là phải thật sự dồn nỗ lực vào việc tu học Phật pháp.Ngay trong những thời điểm nguy kịch này,chính vị đạo sư là người đã bảo hộcứu độ chúng ta.Vị Thượng Sư[1] chính là người đã giới thiệu một giáo pháp thậm thâm vi diệu đã từng được khai mở bởi Đức Phật trong một phương cách xứng hợp với căn cơ hiểu biết của chúng ta.Mặc dầu tất cả Chư Phật đều tích cực nổ lực vì lợi ích của các loài hữu tình chúng sanh nhưng chúng ta có thể thưởng thức cảm nhận được những ích lợi ấy hay không cũng còn tùy thuộc vào mối quan hệ của chúng ta với vị đạo sư.Vị đạo sư là cửa ngõ duy nhất dẫn đưa đến sự chứng ngộ bởi vì ngài là vị thầy sống mà chúng ta có thể trực tiếp liên lạc được.Nếu chúng ta không tuân chỉ theo sự khuyến dạy tu hành và theo cách thức hướng đạo đời mình thì gặp gỡ được một vị đạo sư không chưa đủ.Nếu có phước báu nhận lãnh được những huấn thị trên đây, điều này nói lên ý nghĩa rằng chúng ta đã tránh được đa số chướng ngại then chốt trong việc tu tập Phật pháp,do đó điều quan trọng là hãy tự làm cho cuộc đời còn lại của chúng ta đượm nhiều ý nghĩa bằng cách dấn thân hành trì chánh pháp.Nếu nhập cuộc ngay bây giờ,chúng ta sẽ đương nhiên có thể thẳng tiến trên con đường giác ngộ.

Tu hành bất luận là đường lối nào đều cần đặt nền tảng trên những huấn thị bao quát, hàm súc và xác thực.Cần phải suy xét cẩn thận loại phương thức tu hành nào chúng ta muốn thực tu và những giáo pháp nào chúng ta muốn đặt nền tảng để dụng công thực tập. Đại học giả Tây Tạng Sakya Pandita[2] (1182-1251) từng nói: đối với những việc thế tục như khi đi mua một con ngựa,người ta rất thiết tha quan tâm.Do vậy, điều quan trọng là chúng ta càng phải trở nên kén chọn hơn,khi tuyển lựa phương cách tu tập giáo pháp và chọn lựa sư trưởng; bởi vì cứu cánh của bạn là thành tựu Phật Quả chứ không vị phương tiện vận chuyển.Một vị Thầy có chân xác hay không chưa hẳn tùy thuộc vào khả năng dẫn thuật từ Phật Kinh.Bạn cần nên phân tích ngôn hạnh và cử chỉ của vị ấy.Xuyên qua sự phân tách tỉ mỉ không ngừng, bạn sẽ có thể phát sinh lòng kính ngưỡng sâu xa đối với vị ấy.

Vị đạoTây Tạng Po-To-Wa[3] (1031-1106) đã nói:khởi điểm của con đường giác ngộ viên mãn là học tập kiến ngôn của Đạo sư; còn kinh nghiệm liễu ngộ nhỏ nhất hay sự đoạn trừ được phiền não nhỏ nhất nào cũng đều là thành quả giáo huấn của vị đạotinh thần.Nếu không có một luật sư giỏi cố vấn chỉ dẫn thì chúng ta không sao xử lý được công việc; nếu phải tiến bước trên con đường chưa quen thuộc nhằm thánh tựu Phật quả thì tính cách trọng yếu cỏa một đạo sư tinh thần là điều không có gì để còn phải đặt thành nghi vấn.

Có một số tình huống đã xảy ra, đó là một số người vốn sẵn thông minh tài trí có vẻ như rất khéo léo và tinh anh;nhưng khi muốn chuyên tâm quay hướng theo Phật pháp thì tâm thức lại trở nên tê cóng. Điều này biểu hiện rằng họ chưa tích tập đủ tiềm năng của thiện căn.Còn một số trường hợp khác là,có người tuy rất tinh khôn và sở đắc được một kiến văn quảng bác về Phật pháp,nhưng kiến văn này lại không gây được ảnh hưởng nào cho tâm thức họ cả.Họ chẳng đem sự hiểu biết để dụng công tu hành.Dưới tình huống này, đạo sư tinh thần rất cần yếu.Sự liễu ngộ cao thâm đặc biệt chỉ đạt được xuyên qua sự chỉ giáo tuần tự của một vị đạo sư có kinh nghiệm thực chứng.Vị sư trưởng trở nên một gương sáng để noi theo và là mạch nguồn hứng thú để hành trì chánh pháp. Dù duyệt đọc những kinh văn nói về cách tu luyện Đại Bi Tâm, cũng có thể khiến ta phát khởi lòng xác tín kiên định; nhưng gặp gỡ được một vị hiện tiền đã từng thật tu và còn có thể trao truyền lại cách thức luyện Đại Bi Tâm bằng chính kinh nghiệm của vị ấy nữa thì sự khích lệ càng mạnh mẽ hữu lực hơn con đường chưa quen thuộc nhằm thành tựu Phật quả thì tính cách trọng yếu của một đạo sư tinh thần là điều không có gì để còn phải đặt thành nghi vấn.

Đại sư Tsong-Kha-Pa nói rằng: trừ phi nội tâm sư trưởng đã được điều phục,nếu không thì khó hy vọng rằng ngài sẽ điều phục được tha nhân.Cử chỉ và ngôn hạnh của sư trưởng cần được tiết chế,nội tâm cần phải được phòng vệ tránh xao lãng loạn động do nhờ vào động lực chuyên chú.Họ nên dùng huệ lực[4] để trang bị,và thấu triệt xuyên suốt mọi hiện tượng bề ngoài.Nội tâm của một người sẽ được cho rằng là đã thuần thục nếu người này đạt được sự rèn luyện nghiêm mật hơn trên phương diện giới luật.Trong “Biệt giải thoát giới kinh”[5] bộ kinh nói về những thệ nguyện xuất gia tu hành,nội tâm được ví như con ngựa hoang và sự tuân hành các giới luật được ví như chiếc dây cương để điều phục con ngựa hoang ấy.Vì thế,khi lòng chưa được thuần nhuyễn và bắt đầu cách ly hướng đến đạo quả giác ngộ cũng như say đắm theo những hành vi tiêu cực,thì ngựa hoang cần phải được dây cương giới luật chế ngự, để ngăn ngừa cho thân tâm không bị vi phạm những hành vi xấu xa tiêu cực kia.

Một vị sư trưởng xứng đáng còn cần phải được khéo léo rèn luyện định lực tu tập ở một tầng bậc cao hơn,cụ thể hóa bằng cách vận dụng phương pháp quán chiếu và tự kiểm không ngừng.Gần đây,những người còn ở lại Tây Tạng, đã đạt được kinh nghiệm to lớn trong pháp tu chánh niệm[6]; và chánh tri phản tỉnh[7] vì bất cứ hành vi nhỏ nhiệm nào để diễn đạt sự kháng nghị cũng đều gây phẫn nộ cho chế độ Trung Cộng.Họ phải luôn cẩn thận và giữ tâm chánh niệm để lưu ý thử xem phải chăng mình đã vượt quá qui định nào.Vị sư trưởng còn cần phải được vẹn toàn an định bởi sự tôi luyện cao đẳng của tuệ giác để thấu triệt được thể tánh của mọi hiện tượng hư ảo.

Ngài Tsong-Kha-Pa nói:chỉ có điều phục nội tâm của mình không chưa đủ mà phải cùng lúctri thức đối với giáo pháp nữa.Ngài Lạt Ma Drom-ton-pa [8] từng nói: khi một vị tôn sư diễn giảng về một tiêu đề đặc biệt nào đó,ngài cần có khả năng liên kết tiêu đề ấy với toàn bộ hệ thống kinh điển của con đường tiến đến Phật quả.Sư chưởng cần chuyển đạt được sự thấu triệt của mình về toàn bộ tiêu đề đó thành một phương thức lợi lạc và dễ dàng áp dụng.Như kinh sách đã dạy: chư Phật không thể rửa sạch nghiệp chướng của muôn loài,cũng không thể tẩy trừ được khổ đau cho muôn loài,càng không thể chuyển nhượng sự liễu ngộ của các ngài sanh chúng ta được.Chỉ cần khai mở một chánh đạo cho chúng ta tuân phụng thực hành; đó là chư Phật đã giúp cho mọi loài chúng sanh đạt được giải thoát rồi.

Mục đích chủ yếu trong việc giảng dạy muôn loài là giúp họ thấu hiểu được đạo mầu.Vì thế,trọng yếu là phải có một phương thức thuyết pháp thu hút,làm đủ mọi điều cần thiết đề diễn đạt đúng được tiêu đích.Tâm cơ truyền giáo phải thuần chánh.Không nên vì động cơ mong cầu danh tiếng hoặc lợi dưỡng.Nếu tiền bạc là động cơ thúc đẩy thì việc truyền giáo chỉ trở nên một sinh hoạt của thế tục thôi.Năm 1951,trước khi Trung cộng xâm nhập,một số người tại Lhasa lấy việc tụng kinh hoặc xướng ca để kiếm tiền. Điều này vẫn còn xảy ra tại Tây Tạng.Khách du lịch tụ tập chung quanh và chụp hình lưu niệm.Tôi cảm thấy khá đau lòng khi Phật pháp được dùng như một công cụ để xin ăn chứ không phải để thăng hoa đời sống tâm linh.

Ngài Po-To-Wa đã nói:mặc dù truyền giảng rất nhiều giáo pháp nhưng thâm tâm ngài chưa hề chấp nhận bất luận sự khen ngợi nhỏ nhất nào, bởi vì ngài đã truyền giáo bằng tấm lòng bi mẫn đối với mọi loài chúng sanh.Ngài tôn quý sự truyền dạy như là trách nhiệm của chính mình vị mục đích ban sơ vẫn là sự giúp đỡ tha nhân.Không có lý do nào để khiến kẻ khác cảm thấy mang nợ ta,những gì ta đang làm chỉ là đang hoàn mãn lời nguyện thề của chính mình mà thôi.Giống như khi bạn ăn thì cũng không có lý do để cảm tạ chính mình vì ăn uống chỉ là một việc mà bạn cần phải làm.

Ngài Tsong-Kha-Pa nói: vị đạotinh thầnđạo diễn của bạn trên chánh đạo hướng đến giác ngộ,y hệt như một nền tảng hay một gốc rễ để được chứng ngộ. Vì thế những ai đang tìm kiếm một vị đạotinh thần cần biết rõ những tư cách cần thiết để có thể phán đoán xem vị đạo sư ấy đã hội đủ tiêu chuẩn chưa. Trên thế gian này, nếu không có một vị lãnh đạo xứng đáng thì không thể cải thiện xã hội được.Trừ phi đạo sư tinh thầntư cách thích đáng,dẫu rằng với tín tâm kiên định nhưng nếu bị hướng dẫn sai đường thì đeo đuổi theo vị đạo sư này vẫn bị nguy hại.Do vậy,trước khi thật sự chọn lựa một vị đạo sư cho mình, điều thiết yếu là phải xem xét,dò hỏi nhiều người khác về vị đạo sư này và cũng nên tự kiểm chứng lại nữa.Khi đã tìm được một vị nào thích hợp rồi thì lúc ấy mới bắt đầu quan tâm liên hệ với vị ấy. Đối lại,một vị đạotinh thần muốn tiếp nhận một người nào đó thành đệ tử của mình; quan trọng nhất phải tự châu toàn đầy đủ phẩm hạnh để xứng đáng là một vị thầy lãnh đạo.

Một vị Lạt Ma chỉ vì có một số tùy tùng hoặc người hậu cần vẫn không đủ yếu tố để trở thành vị đạotinh thần.Có sự khác biệt giữa một đạo sư và một Tulku vừa là Lạt Ma,có một số vị chỉ là Tulku chứ không phải là Lạt Ma,và một số vị là Lạt Ma nhưng không phải là Tulku.Trong dòng tộc đoàn thể Tây Tạng,Tulku có địa vị cao và rất được sùng kính.Nếu họ không có phẩm hạnh đạo sư thì cũng chỉ là một danh vị của xã hội thôi.Trong xã hội Tây Tạng và ngay cả ở Tây phương,nơi có rất nhiều các vị Lạt Ma đang truyền giáo; người ta thường quy kính ngay tức khắc những vị nào được tôn xưng là Tulku.

Một số vị khác,tuy cũng thực tu nghiêm mật nhưng không được sùng kính nhiều như vậy chỉ vì họ chưa được ấn chứng là Tulku.Một triết gia vĩ đại nhất ở Ấn Độ,Ngài Long Thọ [9],được nhiều hành giả hậu bối tôn là đạo sư tuy trằng tên tuổi ngài đơn giản;hơn nữa chẳng có sự ghi chép nào rằng là ngài đã từng có tùy tùng hoặc bí thư.Lạt Ma Tây Tạng chúng ta thường có danh xưng rất dài,thậm chí có những danh xưng còn khó phát âm nữa.Trên thực tế,không cần thiết danh xưng nào khác hơn là Tỳ kheo (Tăng lữ)-danh xưng đã được chính Đức Phật phong cấp. Đây là một vài sai lầm của xã hội Tây Tạng.Người Tây Tạng chúng tôi không đặt sự chú ý đến chiếc cà sa màu vàng do Đức Phật đích thân cấp phát nhưng lại quan tâm nhiều đến những y phục dùng để biểu lộ cấp bậc của một người cao trội.Các đạo sư Ấn Độ cận đại đã đội mũ đỏ,và những đệ tử của các vị ấy ở Tây Tạng lập tức đặc biệt chú ý đến chiếc mũ đỏ này thay vì chú ý đến những gì thật chân chánh trọng yếu.

Không nên quá nhấn mạnh đến tầm mức quan trọng phải tìm cho ra vị sư trưởng đáng tin cậy,và tôi thiết nghĩ tình hình chính trị đất nước Tây Tạng đã tỏ ra điên rồ khi chẳng biết hoài nghi về người lãnh đạo.Ngụy trang dưới hình thức người bảo trợ và người có chánh nghĩa,Trung quốc đã thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với Tây Tạng.Chúng ta không ngờ Trung Hoa làm thế với ý đồ miêu tả Tây Tạng như một tỉnh trong chính quốc gia họ để rồi sau rốt dùng luận cứ này biện minh cho sự xâm lăng.Nếu khôngtinh thần trách nhiệm trong việc chỉnh đốn nội tình của chúng ta trên cả hai phương diện tôn giáoxã hội; ắt hẳn chúng ta không tránh khỏi sự hối tiếc về sau.

Vị đại tăng sĩ Geshe Sang-Pu-wa [10] (vào thế lỷ thứ 12) đã có rất nhiều sư phụ tinh thần.Có lần,khi đang du hóa từ Tạng Đông,ngài đã gặp một cư sĩ tại gia đang giảng kinh.Geshe Sang-pu-wa liền đến nghe pháp.Những tùy tùng của ngài đã hỏi tại sao ngài lại cần đi nghe một cư sĩ tại gia giảng pháp.Geshe Sang-pu-wa trả lời rằng: tôi đã từng nghe qua hai quan điểm rất hữu ích.Bởi vì có thể vừa phát khởi lòng hâm mộ kính phục vừa có cả sự tín tâm đối với nhiều người,nên không có gì trở ngại khi ngài có nhiều thầy cùng một lúc.Những người như chúng ta với nội tâm chưa được thuần thục nên thường dễ dàng trông thấy những khuyết điểm của vị đạo sư và tín tâm lại còn có khuynh hướng bị lung lạc một cách dễ dàng-tốt hơn là nên có ít sư phụ nhưng lại liên hệ tốt đẹp với các sư phụ của mình khi mà mình vẫn còn có khuynh hướng trong thấy khuyết điểm và đánh mất niềm tin chỉ vì sự thấy biết những lỗi lầm phiến diện hoặc tưởng tượng nơi các vị này.Bạn có thể tự do tha hồ có càng nhiều đạo sư càng tốt nếu bạn không vấp phải những trở ngại này.

Khi bạn xem vị đạotinh thần là hiện thân của tất cả Chư Phật mà quy y thì loại tịnh tín đó được xây đắp dựa trên nhận thức rằng vị Thượng Sư được ví nhưcăn bản và cội rễ của mọi tăng trưởng thì loại tịnh tín đó được xây đắp dựa trên nền tảng là một sự xác tín kiên định.Khi phát triển niềm tin đối với vị đạo sư bằng cách tuân thủ theo lời chỉ giáo của ngài, điều đó được gọi là tịnh tín gia trì.Thông thường mà nói,tịnh tín được nêu ra như là cội rễ hay cơ sở của mọi đạo đức thiện niện.Khi có thể thấy rằng đạo sư của mình cũng bình đẳng như chính bản thân đức Phật,thì bạn có thể tự chấm dứt nhìn ngó những sai trái và sẽ chỉ tri nhận mọi ưu điểm tốt đẹp của ngài.Nhưng tịnh tín phải dựa trên thử thách và trắc nghiệm.Vì vậy, bạn cần phải cố gắng không ngừng và hãy suy đoán cẩn thận để tránh bớt nhìn ngó các khuyết điểm và hãy nỗ lực tìm kiếm những ưu điểm to lớn của sư trưởng; bởi vì tất cả những soi mói tìm kiếm các khuyết điểm như vậy trên thực tế rất có thể chính là do sự dụng tâm trù dự của bạn.Kinh điển dạy rằng đạo sư tinh thần của bạn trên thực tếthể không phải là một vị Phật hiện thực nhưng nếu xem ngài hệt như Phật sống thì bạn sẽ đạt được nguồn cơ cảm như thể từ một vị Phật chân chính.Hay nói ngược lại,dù đạo sư tinh thần của bạn trong hiện thực có thể là một vị Phật toàn bích đi nữa,nhưng nếu không thể lấy kinh tâm đối với Phật mà đối đãi thì bạn chỉ gặt hái được một sự cơ cảm gia trì của một con người thông thường mà thôi.

Trong thời đại mạt pháp những vị Thượng sư (Guru) thường đại biểu cho tất cả Chư Phật, Chư Bồ Tát để tận lực vì mục đích giải thoát mọi loài hữu tình chúng sanh ra khỏi vòng luân hồi đau khổ.Trong nhiều mật pháp đã từng được tiên tri từ trước rằng, Đức Phật sẽ lấy hình tướng của Thượng sư (Guru) để thị hiện vào thời buổi lộ ra ngoài một cách mạnh mẽ hơn vào thời Mạt pháp; điều này có thể gây hoang mang xáo trộn cho những ai kỳ vọng một hình thức cố định đối với Đại Bi Tâm.Nếu không dễ dàng tiếp nhận lòng bi mẫn và sự minh huấn của Chư Phật thì không có sư trưởng nào có thể giúp đỡ gì nhiều cho chúng ta được.Nhưng,tín ngưỡng và lòng xác tín kiên định sẽ thông hướng chúng ta đến pháp lực của Chư Phật.Bi tâm lớn mạnh của Chư Phật hướng về tất cả chúng sanh,không có biệt lệ nào cả.Điều này bao gồm cả bạn và tôi.

Có một bài giáo thị nói rằng: “Khi ta đang phiêu du trong luân hồi sanh tử,Ngài (Đức Phật) đã tìm đến ta và soi sáng mọi tăm tối vô minh của ta.Ngài đã hướng dẫn ta bằng một con đường quang minh chính đạigiải phóng ta vượt thoát mọi trói buộc phiền não”. Dựa vào quá trình của sự Chỉ Diệt,chúng ta có thể phát hiện rằng Phật đang vì ta mà nỗ lực.Hãy tự vấn: ai trong số những người cận kề đã chỉ đạo cho bạn thoát xa khỏi vòng luân hồi đau khổvô minh,tham đắm và sân hận? Là một trong song thân bạn chăng?Bằng hữu bạn chăng? Vợ hay chồng bạn chăng? Bằng hữu bạn không thể,thân quyến bạn không thể, song thân bạn cũng không thể nốt.Vậy thì,nếu có một vị Phật nỗ lực vì bạn, ắt hẳn vị ấy là người đã dẫn đạo để bạn chứng đắc được quả vị giác ngộ.Sư trưởng của bạn đấy. Đó là nguyên nhân ta nên xem sư trưởng hệt như một vị Phật châu toàn viên mãn.Quá khứ từng có nhiều dẫn chứng,do chướng ngại nội tâm,người tu đã trông thấy một vị Phật chân thật mang hình tướng tầm thường.Ngài Asanga[11] (thế kỷ thứ 4 C.E.) đã từng trông thấy ngài Di Lặc Bồ Tát [12], đức Phật đời vị lai thị hiện thành một con chó cóc ghẻ đầy mình; và ngài Sang-pu-wa [13] thì trông thấy vị Phật Mẫu hiện thành một bà lão cùi hủi.Nếu chúng ta có thể hội ngộ được những vị đại sư của quá khứ,các vị này đã từng chứng ngộ trong cùng một hiện kiếp; thoạt nhìn họ chỉ như một đoàn hành khất bình dịẤn Độ,dạo quanh khắp vùng áo quần lõa thể và trên trán có xâm vẽ nhiều hành chữ.

Khi tôi đề cập đến sự quan trọng của lòng kính ngưỡng đối với sư trưởng và sự nhận tri rằng sư trưởng như một vị Phật;xin chớ hiểu lầm tôi đang ám chỉ cá nhân tôi là Phật. Đây không phải là trường hợp đó ,vì tôi biết tôi không phải là Phật.Bất cứ là tôi được tôn sùng,tuyên dương hay bị kết án;tôi sẽ luôn là một tăng lữ Phật giáo bình phàm như hiện giờ tôi đang là một tăng sĩ,và tôi cảm thấy rất thoải máian lạc.Người ta gọi tôi là Đại Bi Bồ tát, bồ tát Quán Thế Âm;nhưng điều này không làm tôi trở thành Quán Thế Âm [14] Bồ Tát được.Người Trung Cộng gọi tôi là con chó sói mặc áo cà sa,nhưng điều này cũng không khiến tôi thua một con người và hơn một con chó sói.Tôi vẫn nguyên vẹn là một tăng sĩ tầm thường.

Nếu tuân theo những huấn thị của sư trưởng khiến bạn hành động trái luân lý hoặc giả khi giáo pháp của họ mâu thuẫn với giáo lý Phật thì bạn nên làm thế nào? Bạn nên kiên trì với những gì thuộc phần đạo đứcxa lìa những gì không nhất trí với chân lý Phật pháp.Tại Ấn Độ,từng có một vị lão sư có nhiều đệ tử,muốn học trò ông đi trộm cắp.Lão sư này thuộc Bà La Môn giáo và rất nghèo.Ông bảo với các đệ tử khi người Bà La Môn trở nên nghèo khó thì có quyền trộm cắp. Ông nói,do được sủng ái của đấng sáng tạo thế giới. Đại Phạm Thiên Thần,[15]làm thân một người Bà La môn trộm cướp không bị cho là vô đạo đức.Khi nhóm môn đồ sắp sửa kéo nhau lên đường hành nghề móc túi.Vị Bà La Môn bỗng chú ý đến một đệ tử đang đứng lặng yên,chiếc đầu cúi thấp xuống.Vị Bà La Môn hỏi: tại sao con chưa ra tay hành động?

Người đệ tử đáp rằng: “Hiện tại thầy đang dạy chúng tôi làm điều phản lại Phật pháp nên thiết nghĩ tôi không nên làm.” Điều này đã khiến cho vị Bà La Môn rất hài lòng, ông bảo: “Ta đang trắc nghiệm sở học các ngươi.Tuy các ngươi đều là đệ tử trung thành của ta nhưng sự sai biệt giữa các ngươi chính là khả năng phán đoán.Thằng bé này đối với ta rất trung thành,nhưng khi ta dạy điều sai ,nó đã có khả năng tri nhận được lời chỉ bảo ấy trái ngược với Phật pháp và nó đã không thi hành. Điều này rất hợp cách.Ta là thầy của các ngươi,nhưng các ngươi phải cân nhắc lời khuyên dạy của ta,khi nó trái ngược với giáo pháp Phật đà,các ngươi chớ tuân theo.”

 



 
[1] Thượng Sư hay Cổ Như dịch từ chữ Guru

[2] Sakya Pandita dịch là Tát Ca Bang Trí Đạt

[3] Po-Ta-Wa dịch là Bác Ta Va

[4] Huệ lực:năng lực của trí huệ dịch từ “Faculty of wisdom”

[5] Biệt giải thoát giới kinh: Pratimoksha sutra

[6] Pháp tu chánh niệm; (application of) mindfulness

[7] Chánh tri phản tỉnh: (application of) introspection

[8] Drom-tom-pa;Chung Đôn Ba

[9] Long Thọ: Nagarjuna.

[10] Geshe Sang-pu-wa: Cách Tây Tang Bố Va

[11] Asanga:Ngài Vô Trước

[12] Maitreya:Ngài Di Lặc Bồ Tát

[13] Sang-Pu-Wa: Ngài Tang Bố Ba

[14] Avalokiteshvara:Quán Thế Âm Bồ Tát

[15] The God Brahma: Đại Phạm Thiên Thần

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1535)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1668)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1638)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1041)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1521)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1503)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1681)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1948)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1539)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1365)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1374)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1563)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1153)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1274)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1290)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1700)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1651)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3015)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1828)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1368)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1222)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1281)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1415)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1327)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1926)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1695)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1898)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1828)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2397)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1787)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2135)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2241)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2306)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1860)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1982)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2037)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1961)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2599)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1952)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1896)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1954)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1900)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2173)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2320)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1991)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2104)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1889)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1916)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2425)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2330)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 4010)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2500)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3206)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2486)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2054)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1804)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3317)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2351)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3037)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant