Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 6: Quy Y

24 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 11153)
Chương 6: Quy Y


QUY Y

Tín đồ Phật giáo là một người bị thôi thúc bởi động cơ lo sợ phải chịu đau khổ trong vòng luân hồi sanh tử và trong sự chuyển sinh vào cảnh giới thấp hơn mà quay về quy y với Tam bảo: Phật, Pháp (giáo pháp) và Tăng (đoàn thể những người tu hành). Người Phật tử,xuyên qua kinh nghiệm tu hành, biết rằng Tam Bảonăng lực hỗ trợ họ khỏi bị đọa lạc xuống cảnh giới thấp.Vị sư Po-to-Wa[1] vào thế kỷ thứ mười một có lần nói rằng khi ngài viếng thăm một tu viện: dù trong số những vị tu sĩ cao niên đang ngồi cầu nguyện trong ấy, vẫn có vài vị chưa hẳn đã là những Phật tử. Rất nhiều người trong họ thiếu sự hiểu biết thích đáng về Tam Bảo.Vì quy ytăng cường nguyện vọng thành tựu Niết Bàn.

“Phật” là một bậc hoàn toàn thoát ly mọi phiền nãolỗi lầm,là đặc chất của tất cả mọi phẩm hạnh cao quí,là một bậc đã đạt được trí tuệ viên mãn siêu việt để có thể loại trừ được mọi vô minh tăm tối. “Pháp” là kết quả của sự giác ngộ của ngài.Sau khi chứng ngộ, Đức Phật giảng dạy,và điều mà ngài giảng dạy, được gọi là Phật pháp. “Tăng” được hình thành từ đoàn thể những người tu hành theo giáo pháp truyền thừa bởi Đức Phật.Trên đây là định nghĩa căn bản của Tam Bảo.Phạm vi sinh hoạt của Đức Phậtthuyết phápkhai hiển chánh đạo giác ngộ.Hoạt động hay chức năng của giáo phápdiệt trừ đau khổnguyên nhân gây khổ: phiền não.Chức năng của đoàn thể Tăng giàhoan hỷ đảm trách sứ mệnh hoằng pháptu hành theo giáo pháp.Bạn nên quy ngưỡng tôn kính Phật. Đối với pháp bạn cần có thái độ khát vọng cầu thỉnh để nỗ lực tạo được phần nào kinh nghiệm cho chính nội tâm mình;và bạn nên quy ngưỡng tăng đoàn như các thiện hữu cao quý dìu dắt mình trên quá trình của chánh đạo. “Phật” là vị đại đạo sư chỉ bảy cho ta hướng đến con đường giác ngộ. “Pháp” là thật sự quay về nương tựa vào nơi mà ta có thể tìm thấy được sự bao che,bảo hộ tránh khỏi mọi khổ đau ách nạn,và “Tăng” thì bao gồm những thiện tri thức trong suốt mỗi giai đoạn của con đường tu tập đạo chân chính giác ngộ.

Một trong những lợi ích khi quy y là có thể thanh tịnh được mọi tội,mọi nghiệp tạo tác từ quá khứ.Bởi vì quy y sẽ buộc ta phải tuân theo những điều hướng dẫn của Đức Phật để tiến bước trên con đường của những hành vi lương thiện. Đa số những hành vi xấu ác mà bạn đã lỡ phạm trong quá khứ đều có thể được giải trừ hoặc giảm khinh;còn công đức tích lũy thì được gia tăng.Quy y với Tam Bảo,chẳng những ta được sự hỗ trợ để tránh đi những tổn hại trong hiện đời mà còn tránh được cảnh đọa lạc thống khổ trong cảnh giới thấp hơn và có thể nhanh chóng đạt thành Phật quả. Không bao giờ được từ bỏ Tam Bảo dù phải trả giá bằng chính thân mạng của ta. Ở Tây Tạng đã xảy ra nhiều trường hợp Trung Cộng đã tìm cách cưỡng bách người dân từ bỏ tín ngưỡng.Nhiều người đã bày tỏ thà chịu hy sinh tính mạng chứ không thể bỏ được niềm tin tôn giáo Đây mới đích thực là sự phát tâm quy y chân chánh.

Ngài Tsong-Kha-Pa nói: nếu sự sợ hãi[2] và lòng xác tin[3] của bạn chỉ là lời nói không thôi thì quy y cũng chỉ là ngôn ngữ suông.Nhưng nếu sự lo sợ và niềm tin vững chắc vào Tam Bảo của bạn dựa trên nền tảng và dựa vào gốc rễ sâu dầy rằng Tam Bảo có khả năng bảo hộ bạn tránh khỏi niềm lo sợ như vậy thì sự quay về nương tựa của bạn cũng sẽ có năng lực rất cao.

Chính bản thân những đối tượng mà ta quy y cũng phải đạt được cảnh giới hoàn toàn không còn sợ hãi và khổ lụy nữa.Nếu chính những đối tượng ấy còn chưa đạt được đến cảnh giới như vậy thì họ không thể nào có đủ năng lực hỗ trợ chúng ta; giống như người đang ngã quỵ không thể giúp bạn đứng lên được.Vì thế,những đối tượng mà ta trông chờ được bảo vệ cần phải thoát khỏi mọi khổ đau sợ hãi:nếu không thì họ cũng chẳng có khả năng cho dù bị có tâm nguyện muốn bảo hộ chúng ta. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật không những đã tự thoát ly mọi khổ đau sợ sệt mà Ngài còn có năng lực thiện xảo vô thượng có thể hướng dẫn mọi loài chúng sanh tiến bước trên con đường chân chính để được khai ngộ.Ta có thể thấu hiểu điều này dựa trên những giáo pháp khác nhau mà Đức Phật đã tùy ứng giảng dạy theo căn cơ sở thích và khuynh hướng của mọi loài chúng sanh.Ngài đã lưu lại nhiều giáo pháp có thể đáp ứng cho chúng ta với bất cứ trình độ tri thức nào.Khi đã liễu ngộ được tầm mức quan trọng của sự việc như vậy,ta cũng sẽ tùy hỷ tán thán mọi tôn giáo trên thế giới,bởi vì mục tiêu tối thượng của những giáo điều của họ cũng chỉ là giúp đỡ tha nhân. Ngài Tsong-Kha-Pa nói: Nếu bạn tưởng nghĩ đến những đặc chất vĩ đại đã cụ thể hóa đối với ba đối tượng ấy thì không thể nào bạn không được hỗ trợ che chở. Điều ta cần có là cảm giác sợ hãi cùng cực đối với những thống khổ của cảnh giới thấp và vững tin rằng Tam Bảonăng lực bảo vệ chúng ta khỏi khổ.Ta phát khởi lòng tin kiên định này xuyên qua sự quán chiếu các phẩm hạnh cao thượng của Phật, Pháp và Tăng.

Lòng từ bi của chư Phật thì không có thiên vị. Ngài chẳng hề phân biệt trong số những hữu tình chúng sanh ai đã giúp hoặc ai đã không giúp Ngài.Ngài nỗ lực hành hoạt “cho” và “vì” sự an vui phúc lợi của chúng sanh một cách vô tư không thiên vị.Những công hạnh như vậy chỉ có Chư Phật mới được toàn bích.Vì thế nơi nương tựa quy y chính là Đức Phật và nhiều hình thức hóa thân xuất phát[4] của ngài cùng với những giáo pháp đã được truyền dạy,cũng như tất cả đoàn thể những người đã học theo và dấn thân tu hành theo ngài đều chính là nơi nương tựa để quy y.

Kim ngôn của Chư Phật trùm khắp đến nỗi nếu ngài được hỏi một hoặc nhiều điều khác nhau cùng một lúc,kinh sách nói rằng ngài có khả năng thấu triệt nội dung tinh yếu của vấn đề và có thể dùng một câu giải đáp duy nhất mà kết quả nội dung trả lời có thể tương ứng nhất trí với từng trình độ lý giải của người hỏi.

Trí huệ Phật có thể thấu triệt được mọi hiện tượng theo định ước,truyền thống tập tục một cách tuyệt đối giống như xem mọi sự vật trong lòng bàn tay của ngài.Do đó, mọi đối tượng tri thức đều có thể liễu tri và nằm gọn trong tuệ giác siêu việt của Đức Phật.

Tâm Phật bao tùm tất cả,là Nhất Thiết Trí.Tâm trí Phật không có một biệt lệ nào trong việc thấu triệt vạn hữu sum la (mọi hiện tượng thế giới) vì ngài đã đạt đến được cảnh giới hoàn toàn thoát ly mọi chướng ngại của tri thức.Các chướng ngại của tri thức là những dấu ấn hoặc những khuynh hướng thiên lệch còn sót lại trong nội tâm bởi phiền não từ vô thỉ đến nay: đó là sự vô minh đối với bản tánh thực tại,sự tham đắm chấp trước,và lòng sân hận.Khi rũ bỏ hết những nét in ấn trên đây,ta sẽ đạt đến cảnh giới Nhất Thiết Trí bởi vì ta không còn vướng mắc bởi bất cứ chướng ngại tri nhận nào.Khi nội tâm đã đạt đến Nhất Thiết Trí,tâm linh ta sẽ liễu tri được vạn hữu vũ trụ một cách vô chướng ngại.

Khi chứng kiến niềm đau nỗi khổ của mọi loài chúng sanh,tâm Phật tự nhiên cảm kích và bừng lên một lòng bi mẫn bất tận.Khởi đầu của Bồ Đề đạo,Chư Phật phát khởi tâm từ bi rộng lớn đối với tất cả chúng sanh,và đã khai triển tâm từ bi ấy đến cứu cánh tuyệt đích xuyên suốt quá trình tu hành.Từ Bi Tâm,một trạng thái tâm linh có phẩm cao đạo hạnh dựa trên bản tánh hằng sáng của nội tâm,có khả năng tăng trưởng một cách vô tận.

Chư Phật luôn dùng thân,ngữ và ý trong việc mưu cầu lợi ích cho chúng sanh.Các ngài đáp ứng nguyện vọng và dẫn đạo chúng sanh trên từng giai đoạn tu hành bằng phương tiện thiện xảo thích ứng với tùy loại như cầu,sở thích,căn cơ khác nhau.Ngài Tsong-Kha-Pa nói rằng nếu bạn có niềm tin vững chắc nơi “Phật” thì nhờ sự nhớ tưởng đến các phẩm hạnh khác của ngài và lòng nhân từ vô lượng của ngài mà niềm tin đối với “Pháp” là lời khai thị và “Tăng” là đoàn thể những người tu hành sẽ tự nhiên phát sinh.Như thế, toàn bộ luật nghi,quy phạm trong kinh điển Phật giáo sẽ như là lời khuyên bảo cho mỗi cá nhân.Vì thế khi phát khởi lòng tin tưởng kiên định nơi Phật thì bạn cũng sẽ phát khởi niềm tin sâu xa đối với những giáo pháp của ngài.

Bạn không nên chỉ trích phê bình tượng đắp hoặc hình Phật bất kể các tôn tượng đó được làm bằng chất liệu gì hay hình trạng thế nào.Bạn hãy kính trọng tôn tượng như kính trọng Chư Phật.Khi đã quy y Phật rồi,bạn không nên quan tâm đến hình tướng mà chỉ nên kính trọng các tôn tượng bất kể tôn tượng ấy được làm thành bằng chất liệu gì.Bạn tuyệt đối không dùng tượng Phật để buôn bán hoặc để thế chấp vay mượn.

Có lần ngài Atisha được một trong các vị đệ tử của ngài yêu cầu Ngài bình phẩm về tôn tượng của đức Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi,vị Bồ Tát đại biểu cho đại trí và nói rằng nếu ngài Atsha nghĩ rằng pho tượng này đẹp thì ông sẽ mua ngay.Ngài Atisha bảo rằng: Không nên bình phẩm về thân tướng Bồ Tát Văn Thù nhưng pho tượng này chỉ đạt được mức độ trung bình nếu xét về khía cạnh nghệ thuật điêu khắc.Và rồi Ngài Atisha bảo rằng khía cạnh thủ công điêu khắc hoàn toàn ở mức trung bình,dường như Ngài ngụ ý là pho tượng trông không được đẹp lắm.Do đó,những người nghệ sĩ điêu khắc cần nên hết sức cẩn tắc.Những điêu khắc gia mang trọng trách rất lớn kho tô vẽ hoặc điêu khắc nhằm làm thế nào để các Phật tượng được tướng hảo trang nghiêm.Nếu không thì sẽ rất nguy hiểm bởi vì có nhiều người đã tự tích tập nghiệp chứng bất thiện,chỉ vì không thể nhịn cười được trước những hình tượng kỳ dị không cân xứng.

Phương pháp hướng dẫn ta đạt đến cảnh giới Nhất Thiết TríĐạo Đế. Đạo ĐếDiệt Đế đã tạo thành một sự quy y chân chính-Phật Pháp.Phật Pháp là điều mà ta không thể hấp thụ,thấm nhuần ngay tức khắc được mà cần phải được chứng nghiệm xuyên qua một tiến trình dài lâu.Trong tiến trình quy y tu tập,bạn phải hết sức khéo léo để hành thiện đồng thời cần tránh xa các hành vi xấu xa tiêu cực. Đó gọi là thực hành theo giáo pháp Phật.Nếu khiếp sợ những nỗi thống khổ ở các cảnh giới hạ đẳng thì bạn nên chuyển hóangăn ngừa tâm thức mình đừng để sa vào các hành vi bất thiện thường khiến bạn bị đọa lạc. Điều này tùy thuộc rất nhiều vào sự tu hành của bạn có nghiêm cẩn không?Hoặc bạn có quyết chí tích tập công đức và tránh xa những hành vi tổn đức không?Và điều này cũng còn tùy thuộc vào điều, đó là bạn có tin tưởng sâu xa vào luật nghiêp báo hay không?

Có hai loại kinh nghiệm khác nhau; ưa thích và không ưa thích; và loại nào cũng có căn nguyên riêng của nó.Sự đau khổ,một loại kinh nghiệm không ưa thích, được gọi là vòng tuần hoàn luân hồi (samara),có căn nguyên xuất phát từ các phiền nãoác nghiệp, đã ép buộc chúng ta phải tạo nghiệp.Hình thức mong cầu một sự hân lạc,một niềm hạnh phúc chân thật; đó là một loại kinh nghiệm ưa thích,và cũng chính là cứu cánh Niết Bàn và tất cả đều là thành quả của sự tu hành Phật pháp.Còn căn nguyên của đau khổđọa lạc xuống cảnh giới thấp kém hơn là mười ác nghiệp (tường thuật ở chương thứ 7).Sự giàu có phong lưu và thác sanh vào cảnh giới tốt đẹp đúng như sự mong muốn là do trì giới thanh tịnh hoặc do tu hành theo mười thiện hành. Để tránh bị thọ sanh và thọ khổ ở cảnh giới thấp kém hơn,bạn phải diệt trừ tận gốc nguyên nhân đau khổ ấy bằng cách chuyển đổi thân ngữ, ý hướng về hành vi lương thiện đạo đức.Trình độ cả quyết nghiêm mật tu hành của bạn tùy thuộc rất nhiều nơi niềm tin sâu xa vào luật nhân quả; vả chăng bạn có hoàn toàn tin tưởng rằng những khổ họa không như ýhậu quả của các hành vi tiêu cực; và tin rằng các thành quả như ý, chẳng hạn như: hạnh phúc,hỷ lạc,giàu sang đều là quả báo của các hành vi tích cực chánh chân.Vì thế, điều tối trọng yếu trước tiên,là hãy phát triển niềm tin kiên định rằng pháp tắc nghiệp báo không thể sai lầm được.

Quy y Phật pháp,như một lời phát nguyện để khẳng định;người Phật tử cần tỏ bày sự ngưỡng trọng đối với các kinh sách Phật giáo.Bạn không nên bước ngang qua dù là một trang kinh,và Pháp bổn thì cần phải được cất giữ nơi sạch sẽ.Bạn không nên có thái độ chiếm hữu,buôn bán hay cầm thế kinh sách để vay mượn.Không nên mang kính đeo mắt và bút viết đặt trên kinh điển.Khi lật trang kinh,bạn không nên liếm tay.Tương truyền,mỗi khi có người mang Pháp bổn đi ngang qua thì ngài Geshe Chen-nga-wa[5] thường đứng lên;sau này vì tuồi tác lớn,ngài không làm sao đứng lên cung tống được thì ngài thường lặng yên chắp tay tỏ ý tôn kính.Khi ngài Atisha còn ở tây bộ Tây Tạng,có một vị hành giả Mật Tông chưa từng thỉnh pháp với ngài.Một hôm,ngài Atisha chứng kiến một tăng nhân Tây Tạng khác đã dùng thức ăn trong răng mình để làm dấu trang sách kinh đang đọc.Ngài Atisha bảo vị kia không nên làm như vậy.Kết quả là vị hành giả Mật Tông quá cảm kích trước sự quyết tâm quy yphụng hành giới luật học xứ của ngài Atisha,nên tương truyền rằng vị hành giả Mật Tông sau này đã trở thành đệ tử của ngài Atisha.Chúng ta cũng nên tin Tăng Bảo, đoàn thể của các bậc tu hành.Khi nói đến tăng già,chủ yếu là ta đề cập đến những bậc tôn kính trong đại chúng vì nhờ cần mẫn chuyên tu mà đã liễu ngộ được Phật pháp ngay chính từ trong nội tâm và đã thấu triệt được bản tính của mọi thực tại.Tăng Bảo chân chính là những người thường xuyên thực hành Phật pháp; những người duy trì thích đánggiới thể; những người rất xuất sắc trong việc trì giới; những người luôn chân thành chánh trực,tâm tư thì thuần tịnh và ngập tràn từ bi.

Quy y tăng rồi,bạn tuyệt đối không nên thóa mạ bất cứ vị tăng hay ni nào đang theo đuổi đời sống xuất gia.Hãy tôn kính họ và không nên phân biệt phái hệ hoặc tranh đua cao thấp ngay chính trong tăng đoàn với nhau. Ở những nơi như Thái Lan,Tăng Bảo rất được quý kính.Vì được mọi người kính trọng, nên các tăng sĩ không nên cư xử kém thanh nhã khiến người tại gia bị mất niềm tin.Thông thường,tôi không nghĩ phải cần có một đoàn thể tăng sĩ đông đảo to lớn như ở Tây Tạng trước kia mới tốt.Dù chỉ là một đoàn thể nhỏ gồm những vị tăng thuần chánh thanh tịnh cũng còn tốt đẹp hơn.Trở thành tu sĩ hay không chỉ là một vấn đề lựa chọn cá nhân;nhưng sau khi lựa chọn con đường xuất gia làm một vị tăng hay ni rồi, điều đương nhiên là tốt hơn không nên làm ô danh đạo.Nếu không,không những chỉ bất tịnh cho chính bạn mà còn đồng thời khiến người khác thối thất tín tâmtích lũy ác nghiệp một cách vô ích.Tương truyền ngài Drom-ton-pa không hề bước ngang dù chỉ là một mảnh vải đỏ hoặc vải vàng bởi nó tượng trưng cho y bào tăng ni.

Ngài Tsong-Kha-pa dạy rằng: Bắt đầu thọ tam quy là bước vào ngưỡng cửa của Phật giáo.Nếu sự quy y của chúng ta thực sự được cảm nhận một cách sâu đậm chứ không phải chỉ là những ngôn từ suông thì chúng ta sẽ không còn cảm thấy bị thương tổn trước những hãm hại ác độc của loài người và điều này sẽ trợ duyên cho việc tu hành của chúng ta được trở nên dễ dàng. Đã hiểu rõ được những ích lợi này rồi, ta hãy cố gắng nung nấu nỗi lo sợ bị khổ và hãy dõng mãnh phát khởi tín tâm kiên định vào khả năng phò trợ của Tam Bảo trong việc giúp tu thoát khổ.Ta hãy cố gắng để sự hành trì tu tập trong ý nghĩa quy y càng kiên cường càng tốt và tuyệt nhiên không nên vi phạm giới luật đã tiếp thọ.Vì thế,với sự tỉnh thức trước cái chết và niềm lo sợ các cảnh giới thấp kém hơn,ta sẽ khám phá rằng Tam Bảonăng lực che chở ta,rằng Tam Bảo là cội nguồn chân chính để ta quy y nương tựa.

Phật là vị đạo sư chỉ dạy cách quy y chân chánh và Tăng già giống như là những người bạn đồng hành hướng dẫn con đường tiến đến giác ngộ.Thọ giới quy y chính thật ra là quy y với Giáo pháp bởi vì nhờ sự liễu tường giáo pháp mà ta trở nên tự tại giải thoát khỏi mọi khổ đau.Phật pháp gồm có Diệt ĐếĐạo Đế.Sự vắng mặt của phiền não hoặc ly trừ được phiền não gọi là Diệt Đế (Chỉ Diệt).Nếu ta không áo dụng một phương thuốc thích đáng để sửa đổi lỗi lầmđối trị phiền não thì chúng sẽ tiếp tục sanh khởi.Nhưng,một khi phiền não đã được khai trừ tận gốc rễ với phương thuốc giải khổ thì nó sẽ không bao giờ phát khởi trở lại nữa. Cảnh giới như thế,nghĩa là thoát vòng phiền não hay diệt trừ sự ô nhiễm trong tâm linh, được gọi là một loại Chỉ Diệt.Một cách đơn giản,những gì ta muốn buông bỏ,chẳng hạn như khổ và căn nguyên của khổ, đều có thể vận dụng sức đối nghịch để giải trừ buông bỏ chúng được.Sự Chỉ Diệt cuối cùng còn được xem nhưNiết Bàn, đó là một cảnh giới hoàn toàn tự do giải thoát.

Chư Phật,những bậc toàn nhiên chứng ngộ thì bất khả tư nghì ( không thể nghĩ bàn); Phật Pháp,những lời dạy của Chư Phật,là bất khả tư nghì,và Tăng cũng bất khả tư nghì.Vì thế, nếu bạn phát khởi lòng kính tín bất khả tư nghì ,thì kết quả cũng sẽ bất khả tư nghì.

Trong kinh dạy rằng: Nếu có thể thực hành để có thể trông thấy được những ích lợi của sự phát tâm quy y Tam Bảo thì toàn thể vũ trụ cũng quá nhỏ để gồm thâu các sự ích lợi ấy,ví như đại hải không thể đo lường bằng bàn tay của bạn.Dùng chánh niệm để quán chiếu những lợi ích thù thắng này, bạn hãy hoan hỷ với những cơ hội được cúng dường và cơ hội quy y Tam Bảo.Và bạn có thể làm giảm nhẹ những ảnh hưởng của các hành vi bất thiệnnghiệp chướng.Tất cả những hành vi bất thiệnnghiệp chướng kể trên sẽ được hoàn toàn tiêu trừ và bạn sẽ được xem như là một chúng sanh cao siêu toàn bích,một “hoàn nhân” hay một “vô thượng nhân” làm đẹp lòng Tam Bảo.

 



 
[1] Po-To-Wa:Bác Đa Va

[2] Dịch chứ: sợ hãi luân hồi đau khổ

[3] Dịch chú:niềm tin vững chắc vào Tam Bảo

[4] Chú thích của dịch giả: đó là Phật pháp,xá lợi,kinh tượng v.v

[5] Geshe Chen-nga-wa:Cách Tây Gian Nga Wa

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11481)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
(Xem: 12651)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12266)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11044)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10921)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13373)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11794)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13674)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11915)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11185)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12209)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12414)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20607)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12439)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12467)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11730)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11604)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22443)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13587)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29701)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11553)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16761)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12018)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16856)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12084)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17938)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12654)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13181)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14773)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22638)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10595)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14058)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13879)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13730)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13879)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13951)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14843)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13864)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18429)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22813)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15406)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17333)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22426)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14274)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12595)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11180)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17778)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13219)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13117)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18809)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17191)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13523)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12929)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14707)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14666)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15883)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13528)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27450)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13256)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16737)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant