Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Biết Buông Bỏ Chính Là Biết Sống Thật Sự

16 Tháng Hai 201513:37(Xem: 11675)
Biết Buông Bỏ Chính Là Biết Sống Thật Sự
BIẾT BUÔNG BỎ CHÍNH LÀ BIẾT SỐNG THẬT SỰ

Thích Nguyên Hùng Việt dịch


BIẾT BUÔNG BỎ CHÍNH LÀ BIẾT SỐNG THẬT SỰcon người, chúng ta có khuynh hướng bám víu vào đời sống của chính mình. Nhà Phật gọi đó là chấp thủ. Do đó, chúng ta thường tránh né nghĩ về- quá trình đi đến- cái chết của chúng ta. Sogyal Rinpoche nói rằng, chúng ta hoặc trốn chạy cái chết, hoặc chúng ta thờ ơ không nghĩ về nó và cho đó là lẽ tự nhiên.

Tuy nhiên, Rinpoche nói, sự chết đối với chúng ta lại là giây phút quan trọng nhất trong đời sống của mình.

Rinpoche (tiếng Tây tạng có nghĩa là:“vật báu” ) là tác giả của cuốn sách “Tạng thư sống chết”. Cuốn sách này đã được bán 1 triệu 500 bản ngay lần xuất bản đầu tiên và gần đây đã được tái bản lần thứ 10.

Rinpoche sẽ có mặt ở Salt Lake vào ngày thứ ba để cống hiến một bài pháp thoại có tên là: “Lời khuyên chân thật trong mọi lúc của cuộc sống”. Buổi nói chuyện sẽ bắt đầu vào lúc 7 giờ tối tại nhà hát lớn Grand số 1575 S. State thuộc phía nam trường đại học Salt Lake, Campus, với giá 20$ 1 vé .

Ông Patrick Gaffney, người cộng sự với Rinpoche gần 30 năm qua và cũng là người nhuận văn cuốn sách đã giải thích: “Điều mà Rinpoche lưu ýchúng ta xem cái chết như một mất mát và thất bại”. Nhưng theo quan điểm của nhà Phật, Gaffney nói, cái chết không phải là một bi kịch mà là một cơ hội để chuyển hoá. Rinpoche viết trong cuốn sách của mình: “Đối với người nào biết chuẩn bị và thực hành thì cái chết đến với họ không phải là một thất bại mà là một sự thành công, sự trọn vẹn và là giây phút vinh quang nhất của một đời người.

Theo quan điểm của nhà Phật, tầm quan trọng của giây phút tiến gần cái chết là làm thế nào để bản ngã tâm thức và các ảo giác của nó chết dần đi và giác ngộthể đạt đến. Một con ngườitâm thức của họ không bao giờ học hỏithực hành để hiểu thế nào là bản tâm thì có lẽ sẽ không có cơ hội để giác ngộ, Rinpoche nói như vậy.

Ông còn nói, qua quá trình học hỏi để biết chết ra sao con người cũng biết được cách sống như thế nào.

“Thỉnh thoảng, khi tôi dạy những điều này”, ông viết, “một người nào đó chạy đến bên tôi và nói ‘Tất cả những điều này dường như quá hiển nhiên, tôi thừa biết! Hãy nói cho tôi những điều mới hơn’. Khi đó tôi nói với người ấy rằng : ‘Anh đã thật sự hiểu và nhận thức được bản chất của vô thường chưa? Anh đã thể ngộ nó vào trong từng suy nghĩ, hơi thở và từng giây phút mà đời sống của anh đã thay đổi chưa?

“Hãy tự hỏi bản thân mình hai câu hỏi sau:

1. Vào giây phút tôi đang hấp hối, tôi có luôn nhớ mọi người và mọi thứ và đối xử với tất cả bằng lòng từ hay không?
2. Sự hiểu biết của tôi về cái chết và vô thường có trở nên cấp bách và mảnh liệt đến độ tôi đã dành hết thì giờ cho việc theo đuổi sự giác ngộ chưa?

Nếu bạn có thể trả lời ‘có’ cho cả hai câu hỏi này thì bạn đã thực sự hiểu được vô thường”.
“Nếu chúng ta không thực sự hiểu biết được vô thường, Rinpoche nói tiếp, thì chúng ta xem sự thay đổi (vô thường) cũng tương tự như là sự mất mát và khổ đau. Chúng ta đã đổ công sức cố gắng để trở nên được bảo vệ an toàn và càng được an toàn hơn. Và thế rồi đời sống của chúng ta tiếp tục trôi lăn đi, trừ phi một căn bệnh ngặt nghèo hay một tai nạn nào đó bất ngờ ập đến và làm chúng ta choàng tỉnh ra khỏi cơn mê muội đó. Thay vì thế, Ngài nói tiếp, chúng ta nên chấp nhận tất cả những thay đổi dù rất nhỏ trong đời sống của chúng ta – cũng có thể xem những sự thay đổi đó là những cái chết nhỏ – bởi vì sự sống là đi dần đến cái chết (Sanh tử tương tức).

Học cách buông xả chính là chúng ta đã học thế nào là cách sống thực sự, Rinpoche viết : “Và đây là những bi kịchtrớ trêu khi chúng ta cố nắm giữ mọi thứ, bởi vì không những điều đó chúng ta không thể làm được mà còn làm cho chúng ta rất đau khổ khi chúng ta tìm cách để trốn tránh nó”.

Nhà Phật tin tưởng rằng việc hành thiền mỗi ngày có thể giúp con người biết buông xả để hiểu rằng ‘tại sao chúng ta có mặt ở đây và nên hành động như thế nào’ để có thể đạt được nhận thức sáng tỏ vào lúc chết. Trong cuốn sách ‘Tạng thư sống chết’ Rinpoche đã mô tả phương pháp thực hành Phowa, hay sự chuyển hoá tâm thức, mà một người đang hấp hối có thể thực tập được hay nhờ bạn bè, thân nhân của người hấp hối thực tập giúp họ.

“Hàng ngàn người đã có cái chết rất thanh thản nhờ vào sự mầu nhiệm của phương pháp thực tập Phowa này”. Rinphoche đã viết như vậy.

Một bác sĩ chuyên khoa ở vùng Salt Lake, bà Liselot Bergen, cách đây 20 năm đã gặp ngài Sogyal Rinpoche lần đầu tiên ở Amsterdam. Bà đã bỏ ra 7 năm liên tiếp của đời bà sau lần gặp gỡ đó đề nghiên cứu đạo Phật, sau đó chuyển sang nghiên cứu đạo LDS Church – và bây giờ bà đang tiếp cận sự sống và cái chết của cuộc đời mình xuyên qua một lăng kính độc nhất vô nhịkết hợp niềm tin của hai tôn giáo : đạo Phật và đạo LDS. “Bản tâm, theo nhà Phật, chính là cái mà tôn giáo khác gọi là God (Thượng đế), bà Bergen nói, Ngài Rinphoche nó rằng nhà Phật không hề nói về khái niệm Thượng đế nhưng đã nói về con đường để đi đến đó”.

Bà nói tiếp, con người chúng ta thường đến và tiếp xúc với thế giới và cuộc sống xung quanh ta với một ‘tâm hồn tham lam’ (tham tâm). Một tâm hồn tìm kiếm sự hiểu biết chỉ qua kiến thức, một tâm hồn tìm kiếm sự che chở và làm hài lòng cho chính nó trước tiên. Cái bản ngã ấy, bà Bergen nói, nó không đáng tin cậy, không chân thật và không có tình thương yêu.

Bà nói, chính cái tâm hồn này làm chúng xa rời Thượng đế, tuy nhiên, bằng cách thực hành thiền hằng ngày, chúng ta có thể giữ cho tâm thức của chúng ta yên tĩnh, và sau đó, khi chúng ta đạt đến định tâm, chúng ta sẽ nghe được tiếng nói chân thật từ niềm tâm thức, đó chính là Thượng đế, và đó cũng chính là chân tâm.

Bergen và tổ chức Arts Organization mà bà giúp đỡ thành lập ra sẽ đưa Ngài Rinpoche đến Utah. Tổ chức này cũng đã thoả thuận với Ngài văn bản hợp đồng xin phép đưa ra những ý tưởng của Ngài in lên trên những chiếc ly uống nước hoặc lên áo sơ mi. Tiền bản quyền tác giả sẽ chuyển đến Rigpa, một mạng lưới quốc tế của các nhóm và trung tâm Phật tử sáng lập. Rigpa là chương trình săn sóc tâm linh, thường tổ chức các hội nghị cho quần chúng, cho các nhân viên tế bần, cho các bác sĩ chuyên khoa… nói về việc chuẩn bị cho cái chết và săn sóc tâm linh khi sắp hấp hối và những tâm hồn đau khổ.
(Theo The Deseret News)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 318)
Đức Phật thị hiện trong đời vì một đại sự nhân duyên: “Khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến”.
(Xem: 355)
Trong Kinh Giải Thâm Mật do ngài Huyền Trang dịch, phẩm Du già (Yoga) thứ 6 giảng về Chỉ (Samatha, Định), Quán (Vipassana, Quán) và Chỉ - Quán đồng thời.
(Xem: 351)
Hầu hết các loài trên hành tinh này đều thiếu khả năng trí tuệ để xây dựng hệ thống niềm tin.
(Xem: 397)
Hầu như ai cũng công nhận rằng kinh sách cổ xưa đã trải qua nhiều đời và phải chịu sự sửa đổi, thêm bớt, hoặc hoàn toàn do ngụy tạo.
(Xem: 466)
Như một người lạc lối trong rừng hoang nguy hiểm chợt cảm thấy an ổn khi tìm thấy được đường ra, Bồ-đề Nguyện và Bồ-đề Hành
(Xem: 473)
Chúng ta ở đây để chia sẻ suy nghĩ của mình về những gì Phật giáo có thể mang lại trong thời đại Trí tuệ nhân tạo.
(Xem: 485)
Trong Kinh Tạng Pali, có kể hai truyện về hai người cha thời Đức Phật. Qua hai truyện này, chúng ta sẽ thấy sức mạnh của Chánh pháp.
(Xem: 691)
Mở đầu Bản “Giải thích Sáu mươi kệ tụng biện luận lý tính duyên khởi của Long Thọ”, ngài Nguyệt Xứng viết:
(Xem: 701)
Để phân tích sâu hơn câu chuyện "Bốn cô vợ" qua lăng kính Phật giáo, tôi sẽ mở rộng các khía cạnh triết lý,
(Xem: 630)
Là một thuật ngữ âm Hán – Việt, có lẽ khó hiểu với một số Phật tử cũng như những người trẻ.
(Xem: 933)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳ là thời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 905)
Trong suốt khoảng thời gian mười lăm thế kỷ khi Phật giáo có mặt ở Ấn Độ, đã xuất hiện những quan điểm khác nhau về...
(Xem: 720)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phật là phật tính. Và cũng do phật tính mà Đức Phật đã ban cho những lời giảng.
(Xem: 829)
Đức Phật (khoảng năm 450 trước Công nguyên) là người có giáo lý tạo thành nền tảng của truyền thống Phật giáo.
(Xem: 904)
Chỗ ở của người tu thường là nơi thanh vắng, núi rừng. Thời Đức Phật còn tại thế cũng thường ở trong những khu rừng.
(Xem: 768)
Trên con đường tiến hóa của mình, loài người tiến theo hướng càng ngày càng thiện lành hơn.
(Xem: 1059)
Đầu đà tăng còn gọi là khổ hạnh tăng. Hán dịch chữ Tăng, không chỉ riêng tăng nhân Phật giáo mà nhằm chỉ vị tăng của các tôn giáo Ấn Độ cổ đại.
(Xem: 1104)
Truyền Đăng sinh năm 1554, họ Diệp, hiệu Vô Tận, biệt hiệu Hữu Môn.
(Xem: 1179)
Tính nối kết là một đặc trưng của kinh Pháp Hoa. Ở đây chỉ trích ra một ít câu để làm rõ.
(Xem: 1170)
Vạn sự vạn vật hay các pháp hữu vi đều từ duyên mà khởi lên, chứ không có tự tánh.
(Xem: 1508)
Lama Zopa Rinpoche giải thích phương pháp thiền về tính không trong cuộc sống hàng ngày.
(Xem: 1871)
Vạn sự vạn vật hay các pháp hữu vi đều từ duyên mà khởi lên, chứ không có tự tánh.
(Xem: 1521)
Trong bài này sẽ nghiên cứu về chương thứ nhất, phẩm Tựa, của kinh Pháp Hoa để nhìn thấy phần nào tính vũ trụ của kinh
(Xem: 1660)
Khi một thiền giả theo đuổi con đường giới, vị ấy nên khởi sự thực hành khổ hạnhđể kiện toàn các đức đặc biệt ít muốn, biết đủ
(Xem: 1874)
Với ngày giác ngộ của Đức Phật và năm mới sắp đến, suy nghĩ của chúng ta được phát khởi từ...
(Xem: 1959)
Hai thời công phu còn gọi là triêu mộ khóa tụng (朝暮课诵) hoặc nhị khóa, tảo vãn khóa, đều áp dụng cho hàng xuất giatại gia mỗi ngày.
(Xem: 2153)
Người trí tạo thiên đường cho chính mình, kẻ ngu tạo địa ngục cho chính mình ngay đây và sau này.
(Xem: 1939)
Chúng ta kinh nghiệm thế giới vật chất bằng sáu giác quan của mình: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
(Xem: 1632)
Ta đã già rồi ư? Sự vô thường của thời gian quả thật không gì chống lại được.
(Xem: 1959)
Kinh Hoa Nghiêm còn gọi kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, là một kinh điển trọng yếu của Đại thừa. Bản kinh mô tả cảnh giới trang nghiêm huyền diệu
(Xem: 1722)
Từ bây giờ, là người mới xuất gia, nhiệm vụ của các con là sửa đổi và phát triển bản thân.
(Xem: 2020)
Việt Namquốc gia ở vùng Đông Nam Á cho nên chúng ta may mắn được hấp thụhai trường phái Phật giáo lớn nhất của thế giới,
(Xem: 1943)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 2326)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 1927)
Với ngày giác ngộ của Đức Phật và năm mới sắp đến, suy nghĩ của chúng ta được phát khởi từ
(Xem: 1974)
Chủng tử là hạt mầm của đời sống, là nguồn năng lượng đơn vị cấu thành nghiệp lực, là yếu tốsâu kín và căn bản quyết định sự hình thành cái ‘Ta’ (Ngã)
(Xem: 2207)
Đế Nhàn, gọi đầy đủ là Cổ Hư Đế Nhàn, là tổ sư đời thứ 43 Thiên Thai tông, một bậc cao Tăng cận đại, phạm hạnhcao khiết, giỏi giảng kinh thuyết pháp, độ chúng rất đông.
(Xem: 1725)
Giải thoát thì không có trước có sau, không có thừa! Và không có để lại bất kỳ cái gì.
(Xem: 2013)
Bản kinh chúng ta đang có là bản kinh 262 trong Tạp A Hàm Hán Tạng. Trong Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikaya) của tạng Pāli có một kinh tương đương, đó là kinh Chiên Đà.
(Xem: 2087)
Thực tại được kinh Hoa Nghiêm gọi là pháp thân Phật, được diễn tả nhiều trong các bài kệ của phẩm đầu tiên Thế Chủ Diệu Nghiêm.
(Xem: 2129)
Gần 26 thế kỷ về trước, sau khi kinh qua nhiều pháp môn tu tập nhưng không thành công, Đức Phật đã quyết định thử nghiệm chân lý bằng cách tự thanh tịnh lấy tâm mình.
(Xem: 1500)
Tín là niềm tin. Niềm tin vào Tam Bảotin tưởng vào Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 2110)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian đem lại an vui cho tất cả chúng sanh. Đạo Phật là đạo của giác ngộgiải thoát.
(Xem: 1501)
Pháp Lục hòa là pháp được đức Đạo sư nói ra để dạy cho các đệ tử xuất gia của Ngài lấy đó làm nền tảng căn bản cho nếp sống cộng đồng Tăng đoàn
(Xem: 1458)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha
(Xem: 1338)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người
(Xem: 2136)
Sự thành tựu tối thượng mà những vị đang đi trên con đường độc nhất tiến tới giác ngộ, là khả năng thành tựu tất cả từ hư vô.
(Xem: 1707)
Phật pháp như thuốc hay, nhưng tùy theo căn bịnh.
(Xem: 2026)
Pháp Duyên khởi, tiếng Phạn là Pratīya-samutpāda. Pratīya, là sự hướng đến. Nghĩa là cái này hướng đến cái kia và cái kia hướng đến cái này.
(Xem: 2341)
Phẩm này tiếng Phạn Sadāparibhūta. Sadā là thường, mọi lúc, mọi thời gian; Paribhūta là không khinh thường.
(Xem: 2573)
Ngày xưa, ở thành Xá-vệ có một vị trưởng giả giàu có, tiền tài châu báu vô lượng. Ông thường thứ tự thỉnh các vị sa-môn đến nhà cúng dường.
(Xem: 2740)
Đối với chúng con, bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa.
(Xem: 2401)
Truyền thống Đại thừa Á Đông thường dịch nghĩa prajñāpāramitā là Huệ đáo bỉ ngạn (zh. 慧到彼岸), Trí độ(zh. 智度), Trí huệ độ người sang bờ bên kia.
(Xem: 2337)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(Xem: 1790)
Không có một chỗ nào để trụ trong giáo pháp Trung đạo. Tâm không có chỗ trụ thì không tự giải quyết được gì vì không có nơi để tập trung, nắm níu.
(Xem: 1794)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(Xem: 1599)
Kamma, Nghiệp, theo đúng nghĩa của danh từ, là hành động, hay việc làm. Định nghĩa cùng tột của Nghiệp là Tác ý (cetana).
(Xem: 1494)
Đối với quỷ sứ, cung trời là địa ngục còn địa ngụcthiên đàng. Đối với thiên thần, cung trời là thiên đàng còn địa ngụcđịa ngục.
(Xem: 2927)
Duyên Khởi hay còn gọi là Định luật Nhân Quả là một nội dung quan trọng bậc nhất trong giáo phápĐức Phật thuyết giảng.
Quảng Cáo Bảo Trợ
AZCMENU Cloudbase: Giải pháp TV Menu thông minh, tiện lợi, chuyên nghiệp!
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM