Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bảo Vệ Chánh Pháp

22 Tháng Hai 201506:00(Xem: 9073)
Bảo Vệ Chánh Pháp
BẢO VỆ CHÁNH PHÁP

Chân Thường


Bảo Vệ Chánh Pháp1- Hầu hết những nhà nghiên cứu kinh điển Phật giáo đều công nhận rằng bản kinh Phạm Võng (Brahmajala Sutta) là một trong những văn bản Phật học quan trọng vào bậc nhất của toàn bộ hệ thống văn học Phật giáo, bất kể tông phái hay dòng truyền thừa. Quả thật, kinh Phạm Võng – được các dịch giả phương Tây chuyển ra tiếng Anh là The Perfect Net, Tấm Lưới Toàn Hảo – chính là bản tóm lược đầy đủ một cách có hệ thống được trình bày hết sức khoa học về mọi luận điểm căn bản của tư tưởng giới Ấn Độ thời Đức Phật. Bản Việt dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu chỉ trong phạm vi 13.000 từ đã thuật lại toàn bộ những ý kiến chủ đạo của các vị luận sư thời bấy giờ đối với những vấn đề luôn luôn làm con người băn khoăn về vũ trụ, về nhân sinh, về hiện tượng, về bản chất… Toàn thể những luận điểm ấy không ra ngoài những chủ trương như thường kiến hay đoạn kiến, hữu biên hay vô biên, hữu nhân hay vô nhân, ngẫu nhiên hay quyết định… Không chỉ tư tưởng giới cổ Ấn Độ, mà đến tận ngày nay, 26 thế kỷ đã trôi qua, hầu như những vấn đề tương tự vẫn khiến con người phải loay hoay với những câu hỏi và những lời giải đáp chưa ra khỏi nội dung kinh Phạm Võng; trong đó, những kiến giải thời cổ đã bị Đức Phật liệt vào hạng tà kiến. Có thể thấy giải thưởng Nobel Vật lý năm 2011 được trao cho những công trình nhằm xác định vũ trụ đang tiếp tục giãn nở cũng thể hiện sự loay hoay của tư tưởng con người về những vấn đềĐức Phật đã giải quyết từ thế kỷ thứ năm trước Tây lịch. Nói lên điều này không phải để ca ngợi kinh Phạm Võng, mà để thấy rằng kinh Phạm Võng là một trong những bản kinh không thể bị bỏ qua khi cần thảo luận về các vấn đề Phật học. Riêng đối với vấn đề bảo vệ Chánh pháp, điều quan trọng không nằm ở nội dung chính của kinh Phạm Võng, mà nằm ở bối cảnh khiến Đức Phật đã tuyên thuyết nội dung Phạm Võng, những điều được thuật lại ngay ở đầu bản kinh, liên quan đến thái độ của người con Phật trước những lời khen tiếng chê đối với Đức Phật, đối với giáo pháp của Ngài, và đối với Tăng đoàn do Ngài đã xây dựng.

2. Kinh Phạm Võng thuật rằng khi Đức Phật cùng khoảng 500 vị Tỳ-kheo đi trên đường từ Rajagaha đến Nalanda thì có hai thầy trò của một vị Bà-la-môn đi chung đường. Suốt dọc đường, vị Bà-la-môn ấy kiếm hết mọi lời lẽ để hủy báng Đức Phật, hủy báng giáo pháp của Đức Phật, và hủy báng Tăng đoàn do Đức Phật đã xây dựng. Trả lời thầy của mình, người đệ tử của vị Bà-la-môn ấy cũng kiếm hết mọi lời lẽ để tán dương Đức Phật, giáo pháp, và Tăng đoàn của Ngài. Vì họ cùng đi chung đường với các Tỳ-kheo, thái độcâu chuyện của họ không qua khỏi cặp mắt và đôi tai của chư Tỳ-kheo. Đêm xuống, Đức Phật cùng các Tỳ-kheo đến nghỉ tại một hành cung của nhà vua; hai thầy trò Bà-la-môn kia cũng đến nghỉ ở đấy. Tại chỗ nghỉ, hai thầy trò họ tiếp tục cuộc nói chuyện, cũng với thái độ như lúc trên đường. Khi đêm vừa tàn, chư Tỳ-kheo thức sớm, đến tại hội trường, thảo luận với nhau về thái độ của hai thầy trò Bà-la-môn. Có lẽ đã có những vị cảm thấy vui mừng trước những lời tán dương và cũng có những vị bực tức trước những lời hủy báng. Giữa lúc chư Tỳ-kheo còn bàn luận thì Đức Phật cũng đến tại hội trường. Sau khi hỏi để biết rõ nội dung thảo luận của chư Tỳ-kheo, Đức Phật dạy,

Này các Tỷ-kheo, nếu có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng, các ngươi chớ có vì vậy sanh lòng công phẫn, tức tối, tâm sanh phiền muộn. Này các Tỷ-kheo, nếu có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng, và nếu các ngươi sanh lòng công phẫn, tức tối, tâm sanh phiền muộn, thời như vậy sẽ có hại cho các ngươi”.…. “… khi có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng, các ngươi phải nói rõ những điểm không đúng sự thật là không đúng sự thật: ‘Như thế này, điểm này không đúng sự thật; như thế này, điểm này không chính xác; việc này không có giữa chúng tôi; việc này không xảy ra giữa chúng tôi’”1 và “Này các Tỷ-kheo, nếu có người tán thán Ta, tán thán Pháp, hay tán thán Tăng, thời các ngươi không nên hoan hỷ, vui mừng, tâm không nên thích thú. Này các Tỷ-kheo, nếu có người tán thán Ta, tán thán Pháp hay tán thán Tăng, mà nếu các ngươi hoan hỷ, vui mừngthích thú thời sẽ có hại cho các ngươi. Này các Tỷ-kheo, nếu có người tán thán Ta, tán thán Pháp hay tán thán Tăng, thời các ngươi hãy công nhận những gì đúng sự thật là đúng sự thật: ‘Như thế này, điểm này đúng sự thật, như thế này, điểm này chính xác, việc này có giữa chúng tôi, việc này đã xảy ra giữa chúng tôi’1.

Tiếp theo, Đức Phật mới giải thích rõ những gì khiến kẻ phàm phu có thể vì thế mà tán thán Đức Phật; và để làm rõ những điều ưu việt trong giáo pháp của bậc Đạo sưĐức Phật đã tổng kết những tà kiến của toàn thể tư tưởng giới đương thời, điều được thể hiện trong nội dung chính của kinh Phạm Võng.

3 Vài năm trở lại đây, Phật giáo ngày càng nhận được sự trân trọng của xã hội và nhất là của hệ thống chính trị đương đại. Gần đây nhất, trong cuộc Đại lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam được tổ chức tại Sóc Sơn ngày 7-11-2011, vị đại diện cho Chính phủ đã trang nghiêm đảnh lễ trước ảnh tượng Đức Phậtthành tâm niệm hồng danh Đức Bổn Sư trước sự cảm kích và trân trọng không chỉ của những người có mặt trong buổi lễ mà còn của tất cả những khán giả may mắn theo dõi đầy đủ trên màn ảnh truyền hình trực tiếp. Điều đó cho thấy tư tưởng Phật giáo đang ngày càng củng cố được chỗ đứng trong xã hội Việt Nam hiện đại sau một thời kỳ dài bị hiểu lầm. Đó có thể là kết quả của những nỗ lực thể hiện giáo pháp của Đức Phật mà người Phật tử Việt Nam đã kiên trì thực hiện suốt mấy chục năm qua. Đó cũng có thể là điều tất nhiên, vì tư tưởng Phật giáo vốn là một thành tố không thể tách rời trong tư tưởng văn hóa truyền thống của dân tộc; cho nên khi xã hội Việt Nam hướng tới an lạc và hòa bình thì việc xiển dương và phổ biến tư tưởng Phật giáo là điều cần thiết bởi lẽ tư tưởng Phật giáotư tưởng hòa bình, thái độ Phật giáothái độ khoan dung, quan điểm Phật giáoquan điểm nhân bản, quan điểm “nhất thiết duy tâm tạo” mà tâm ở đây rõ ràng là tâm chúng sinhchúng sinhtrạng thái thích hợp nhất với việc xây dựng một xã hội an lạc chính là con người. Tuy nhiên, hướng tâm đến lời dạy của Đức Phật trong kinh Phạm Võng, trước thái độ trân trọng đó, người Phật tử Việt Nam cũng không nên hoan hỷ, vui mừng, hay sinh tâm thích thú; mà càng thấy cần phải sống đúng với những lời dạy của Đức Bổn Sư, để tư tưởng Phật giáo thật sự tác động tích cực hơn đến xã hội, từ việc nhỏ đến việc lớn. Có lẽ thái độ thích hợp nhất của người Phật tử Việt Nam là, thấy Phật giáo được xã hội trân trọng, càng thêm trân trọng xã hội.

4 Nhưng cũng vài năm gần đây, thỉnh thoảng lại thấy xuất hiện một số hiện tượng bị coi là mang tính bài bác hay biếm nhẽ Phật giáo; cũng có cả những hiện tượng vận động quần chúng Phật tử bỏ đạo để tìm đến một chỗ dựa tâm linh nơi các truyền thống tôn giáo hay tín ngưỡng khác. Cũng đã có những ý kiến bình luận các hiện tượng ấy, xuất phát từ người Phật tử hoặc từ các vị chức sắc Phật giáo. Có những ý kiến ôn hòa nhưng cũng không thiếu những lời lẽ thể hiện sự bực tức. Đâu đó đã có những chỉ trích việc giáo phái nào đó tìm cách khuyến dụ người Phật tử Việt Nam cải đạo. Khi một vài nhóm người sử dụng các hình tượng liên quan đến Phật giáo trong việc quảng cáo hay tiếp thị, cũng đã có những ý kiến phê bác khá nặng nề; chẳng hạn, việc một cơ sở kinh doanh bia rượu nào đó sử dụng hình ảnh Đức Phật Di Lặc trên nhãn bia, một quán bar nào đó lấy tên The Funky Buddha Bar…

5 Việt Nam hiện nay đang xây dựng một xã hội dân chủ. Đất nước Việt Nam là một cộng đồng đa dân tộc. Người Việt Nam theo nhiều tôn giáo khác nhau.
Phật giáo được xã hội trân trọng thì cũng chỉ là một thành tố của cả cộng đồng dân tộc. Trong mọi xã hội, luôn có những con người thật sự văn minh, biết trân trọng những giá trị khác biệt với những giá trị mà mình theo đuổi, biết đối xử với những người có ý kiến khác biệt với mình bằng lòng khoan dung; nhưng cũng không thiếu những con người hẹp hòi, thiếu một nền tảng văn hóa, chưa hòa nhập được với tinh thần đa tạp của một cộng đồng đa dân tộc. Những người ấy có thể hằn học trước sự kiện Phật giáo đang được xã hội quan tâm, có thể do thiếu hiểu biết, có thể do có khả năng hài hước quá cao, có thể bị xuy động bởi một nhãn quan thiển cận, có thể không ý thức được việc rằng mình làm là thể hiện một trình độ bán khai về văn minh, có thể chỉ biết đến mình và đoàn thể của mình mà không biết đến người khác và đoàn thể của người khác… đã có những hành vi hay thái độ thiếu tế nhị, kể cả là thật sự ác ý. Tuy nhiên, không vì vậy mà người Phật tử cần phải bày tỏ sự bực tức của mình, đúng như lời Phật dạy trong kinh Phạm Võng, “… nếu có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng, các ngươi chớ có vì vậy sanh lòng công phẫn, tức tối, tâm sanh phiền muộn. Thay vào đó, thái độ đúng của người Phật tử có lẽ là phải củng cố hơn nữa bản lĩnh nhẫn nhục và tâm thái khoan dung của mình, đồng thời xem lại mình đã thật sự xứng đáng với sự trân trọng của xã hội hay chưa, nếu chưa, phải cố gắng làm thế nào cho xứng với sự trân trọng ấy; được như thế, sau đó, hẳn là những ai chưa trân trọng đúng mực đối với Phật giáo phải nghĩ lại, nhưng đó cũng không phải là điều mà người Phật tử phải quan tâm.

6 Ở một góc độ nào đó, đúng là người Phật tử Việt Nam hết sức cần tự nhìn lại mình. Đã có những khẳng định cho rằng khi Phật giáo được quảng bá trong một xã hội nào đó, tư tưởng hiền thiện của đạo Phật sẽ tác động đến xã hội ấy, khiến con người trong xã hội ấy sống với nhau hòa hợp hơn, thuần phong mỹ tục nơi đó được phát triển hơn. Nhiều Phật tử Việt Nam vẫn tự hào rằng Phật giáo đã đến với dân tộc này từ hai ngàn năm qua và suốt thời gian ấy luôn đồng hành cùng dân tộc. Trong vài chục năm trở lại đây, các phong trào xây chùa dựng tượng đúc chuông được thực hiện đều khắp; số lượng kinh sách, băng đĩa có nội dung Phật học được phát hành nhiều hơn bao giờ hết; những cuộc hành hương chiêm bái Phật tích trong và ngoài nước được tổ chức quy mô; những cuộc lễ lạt, rước xách tốn kém được tiến hành với sự tham dự của hàng chục ngàn đến hàng trăm ngàn người. Thế nhưng có phải xã hội Việt Nam đã từ hòa hơn, đã phát triển được thuần phong mỹ tục, đã bảo vệ và phát triển được về mặt văn hóa? Người ta vẫn thấy không ít chùa chiền Tăng sĩ khuyến khích các hoạt động mang tính cách mê tín dị đoan như đốt vàng mã, xem xăm quẻ, bói toán, lên đồng, cầu hồn. Chưa kể nội dung Phật học trong các sách báo băng đĩa phát hành tràn lan không qua hiệu đính của cơ quan thực sự có thẩm quyền về Phật học, đã làm rộ lên những nghi vấn về tính trí tuệ của đạo Phật. Trong xã hội, những chuyện đau lòng về hiếu đạo, về sự vô cảm, về thái độ nhẫn tâm, về tính độc ác của con người, hiện tượng sa đọa chẳng những của giới trẻ mà cả của người trưởng thành và quan chức… hình như không thiếu.

7 Giáo pháp của Đức Phật vô cùng rộng lớn và có tới tám vạn bốn ngàn cửa để vào. Tuy nhiên, ở tầm vóc của người Phật tử tại gia, việc giữ được đủ năm giớithực hành mười điều thiện hàng ngày cũng không phải là dễ dàng; và chẳng phải ai cũng dám khẳng định mình không hổ thẹn khi đứng trước tượng Đức Bổn Sư. Thế nhưng người Phật tửtín tâm sẽ không vì thế mà thoái thất bồ-đề tâm của mình; vì người ấy biết rằng mình hoàn toàn có khả năng mỗi ngày mỗi sửa chữa chút ít, với kiên tâm trì chí thì cũng sẽ có lúc đặt được chân vào dòng Thánh. Việc tự điều chỉnh hàng ngày mọi hành vi thân khẩu ý của mình chính là việc bảo vệ Chánh pháp một cách tích cực nhất của người Phật tử tại gia; chứ không cần bảo vệ Chánh pháp bằng việc phê bác những người thiếu thiện chí, biếm nhẽ đạo Phật; hoặc tìm cách đối phó với những khuyến dụ cải đạo đến từ các tôn giáo khác. Trong tập tiểu luận What Makes You Not a Buddhist? của ngài Dzongsar Jamyang Khyentse2 có một câu rất đáng chú ý rằng, “… là một Phật tử bạn không có nhiệm vụ hay bổn phận phải cải đạo phần còn lại của thế giới sang đạo Phật”. Quả thật, giáo pháp của Đức Phật không cần ai bảo vệ, vì tất cả những lý thuyết căn bản của Phật giáo không phải là vật sáng tạo của Đức Phật mà là những luật tắc thường hằng trong cõi đời được Đức Phật phát hiện với sự truy vấn nghiêm ngặt và miên mật của Ngài. Đó là những sự thật luôn luôn có sẵn trong trời đất chẳng ai có thể cướp đoạt hay xóa bỏ được mà cần phải bảo vệ. Điều cần bảo vệ chính là cái tâm của người con Phật, biết kiên trì thực hành những lời Phật dạy để đem lại an lạc cho chính mình và những người chung quanh mình trên tinh thần tôn trọng những giá trị của người khác.

Trong mùa Phật thành đạo, người Phật tửtín tâm càng phải ghi nhớ những lời dặn dò của Phật trước khi Đức Bổn Sư vào Niết-bàn rằng, Này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp do Ta chứng ngộ và giảng dạy, các ngươi phải khéo học hỏi, thực chứng, tu tập và truyền rộng để cho phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người? Chính là Bốn Niệm xứ, Bốn Chánh cần, Bốn Thần túc, Năm căn, Năm lực, Bảy Bồ-đề phần, Tám Thánh đạo phần. Này các Tỷ- kheo, chính những pháp này do Ta chứng ngộ và giảng dạy, mà các ngươi phải khéo học hỏi, thực chứng, tu tập và truyền rộng để phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng của đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người3. Đó mới thật là bảo vệ Chánh pháp.

Chú Thích

1. Kinh Phạm Võng, bản kinh số 1 trong tuyển tập Kinh Trường Bộ tập I, Hòa thượng Thích Minh Châu dịch.

2. Tác phẩm đã được dịch ra tiếng Việt với tựa đề“Thế nào là phật tử”, dịch giả Trần Tuấn Mẫn và Nguyễn Thị Tú Oanh, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành, quý IV năm 2011.

3. Kinh Đi t Niết-Bàn, bản kinh cuối cùng của tuyển tập Kinh Trường Bộ tập I, Hòa thượng Thích Minh Châu dịch.


Chân Thường
(TC. Văn Hóa Phật Giáo)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21939)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 8041)
Thiều Chửu và Đoàn Trung Còn đều không giải thích được lý do tại sao chữ VẠN quay theo chiều này thì cát tường, quay theo chiều ngược lại thì nguy hại... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 7721)
Một trong những nền tảng quan trọng của đạo đức Phật giáotuân theo tinh thần bất bạo động... Tác giả: Charles K. Fink; Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 8831)
Đức Phật đã thuyết giảng như thế nào về sự đau đớn? Ngài bảo rằng sự bất an của chúng ta gồm có hai thể dạng khác nhau... Ajahn Brahmavamso, Hoang Phong dịch
(Xem: 7135)
Không là một khái niệm xuất hiện khá sớm trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, trải dài đến Phật giáo Đại thừa... Thích Nữ Nhuận Bình
(Xem: 9347)
Tác phẩm “Tuệ Sanh Định” là một trong số ít tác phẩm được viết bởi Bậc Thầy Maha Boowa (Bhikkhu Ñanasampanno)... Nhất Như dịch Việt
(Xem: 8789)
Nguyên tác tiếng Anh của Darwinism, Buddhism and Christanity được đăng trong tạp chí The Maha Bodhi, Sri Lanka, Tập 82 Dec 1974 Thích Nữ Liên Hòa dịch
(Xem: 10235)
Trong Kinh Duy-Ma-Cật, khi Phật bảo Ngài Duy-Ma-Cật thị hiện cõi nước Diệu-Hỷ có Vô-Động Như-Lai, các Bồ-Tát, và đại chúng nước ấy cho đại chúng xem... Toàn Không
(Xem: 8212)
Chân Nguyên kết luận: “Đức Phật Thích Ca đã tự chính mình đem thánh hiệu mà dạy cho hai người già, điều đó không còn có thể nghi ngờ gì nữa”... Thích Phước An
(Xem: 9547)
Một sự kết hợp thú vị giữa đạo đức chính trực, sự phục tùng, lòng khoan dung, cầu nguyện, khả năng tự lực, tự thanh lọc và tình yêu... Mai Thục
(Xem: 6966)
Mũi tên biểu trưng cho một sự đau đớn trên thân xác, nhưng cũng có thể là nguyên nhân gây ra một sự hoảng sợ trong tâm thần... Hoang Phong
(Xem: 8005)
Yết-ma, được phiên âm từ karmam[1] của tiếng Phạn. Hán dịch là “biện sự tác pháp”, được định nghĩa: “Vạn sự do tư thành biện cố”... Thích Minh Cảnh
(Xem: 8376)
Quảng bản kinh được Pháp Nguyệt dịch năm 732, rồi đến Bát NhãLợi Ngôn tái dịch năm 790. Cho đến Thi Hộ đời nhà Tống dịch lần chót là có tất cả 7 bản... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 8638)
Bồ tát hành đạo bắt đầu từ giữa lòng xã hội nên sự tiếp cận với mọi thống khổ nhân sinh là lẽ tất nhiên... Thích Tuệ Sỹ
(Xem: 8402)
Thiền sư Vĩnh Bình Đạo Nguyên, hoặc Đạo Nguyên Hy Huyền (1200-1253), là vị tổ sáng lập ra dòng Tào ĐộngNhật Bản... Ngọc Bảo dịch
(Xem: 8521)
Một cách vắn tắt, đó là vị trí của nữ giới trong Phật Giáo. Người phụ nữ xứng đáng có một chỗ đứng danh dự ngang hàng với nam giới... Piyadassi Mahathera; Dịch giả: Phạm Kim Khánh
(Xem: 11255)
Người vợ cần quán chiếu tâm mình thật cẩn thận trong một thời gian và từ đó đi đến quyết định đúng cho cuộc đời của mình... Mithra Wettimuny; Diệu Liên Lý Thu Linh chuyển ngữ
(Xem: 8565)
Đức Thế Tôn là người đầu tiên đòi quyền lợi cho giới nữ, đưa vị trí giới nữ ngang bằng nam giới... Thích Hạnh Bình
(Xem: 10698)
Hội Phật giáo Trung Quốc ước tính rằng hiện có khoảng 180,000 tăng niTrung Quốc... Nguyên tác: Tịnh Nhân; Thích Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 9463)
Ngài đã gọi dứt khoát, rõ ràng “tự phá thai mình” là một tội, phải chịu quả báo hết sức nặng nề và kéo dài... Chân Minh
(Xem: 9267)
Làm thế nào để những cha mẹ Phật tử có thể dạy tốt lời dạy của Phật giáo cho con em của họ?... Helmuth Kalr; Thích Minh Diệu
(Xem: 9574)
Rồi lần lượt không bao lâu, khi Ðức Phật đúng 80 tuổi đời, 45 tuổi đạo, Ngài cũng giã từ Tứ chúng để an hưởng quả vị Vô Dư Niết-bàn... Thích Thiện Minh
(Xem: 10340)
Con người không bao giờ ngưng tìm kiếm trong thiên nhiên để mong thâu thập được nhiều thứ hơn nữa nhằm chất đầy cái nhà kho mãi mãi thiếu thốn của mình... Tuệ Sỹ
(Xem: 16212)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19180)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 8689)
Long Thọ (Nagarjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán mà ngài còn được coi là vị Phật thứ hai sau đức Thế Tôn trong lịch sử phát triển Phật giáo.... Vũ Thế Ngọc
(Xem: 8033)
Như thế giải thoát cho vô số vô biên chúng sinh, nhưng thực ra không có chúng sinh nào được giải thoát... Vũ Thế Ngọc
(Xem: 24154)
Cúng dườngbố thí vốn cùng một nghĩa "cho". Cái gì của mình mà có thể đem ra "cho" người khác, thì gọi là "cho"... TT Thích Nhất Chân
(Xem: 9396)
Lịch Sử Văn Học Phật Giáo Tiếng Sanskrit (Literary History of Sanskrit Buddhism - Nguyên tác: J. K. Nariman; Thích Nhuận Châu dịch Việt
(Xem: 7647)
Yết-ma là phiên âm từ karman của tiếng Phạn. Hán dịch là «biện sự tác pháp», và thường được các luật sư Trung quốc giải thích rằng «Vạn sự do tư thành biện cố.»... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 10562)
Chúng ta có thể thấy được đức tính của những khóm tre cây trúc, của những dòng sông, của cây mai, của đất, của áng mây... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17727)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 6960)
Giáo dục Phật giáo – nền giáo dục minh triết, vốn ở cao, ở trên triết học... Minh Đức Triều Tâm Ảnh
(Xem: 8881)
Đọc công trình của Francois Jullien những độc giả "Tây giả" (Á và Âu) có thể thấy được rằng người bà con nghèo của triết học có những sở đắc... Nguyên Ngọc dịch
(Xem: 12368)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 7711)
Chúng ta thường nghĩ là mình đã hiểu nhưng thật ra có lẽ ta chưa hiểu rõ thế nào là quy y Tam Bảo... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 14621)
Tăng đoànhình ảnh của Đức Phật, mang trọng trách thừa Như Lai sứ, hành Như Lai sự... Thích Phước Sơn
(Xem: 8258)
Ðại Tạng Kinh là một công trình tập thành tâm huyết của bao nhiêu thế hệ Tổ Sư, cổ đức Ấn Ðộ, Trung Hoa, Nhật Bản, Cao Ly... Liên Hương kính ghi
(Xem: 7795)
Trong Phật giáo đại thừa nói rất rõ: Phiền não tức bồ đề, Niết bànsinh tử. Niết bànsinh tử là một cặp bài trùng, không có cái này thì không có cái kia...
(Xem: 8857)
Có thể nói “tâm” là cơ sở và động lực giải nghiệp, giải hạn khổ ách đối với con người trong mọi không giannăng lực chuyển nghiệp.
(Xem: 14809)
Tổ tiên ta đã Phật hóa gia đình, giáo dục con cháu phải biết chia sẻ hạnh phúc, ban rải tình thương đến mọi người, mọi loài... TT Thích Lệ Trang
(Xem: 9273)
"Khi cúng dường tứ sự đến cho một vị tỳ-khưu, hai vị tỳ-khưu, cận sự nam nữ đừng nghĩ đến cá nhân vị ấy mà cứ khởi tâm cúng dường Tăng..." Tâm Tịnh
(Xem: 12333)
Từ Trạch Pháp này rất quen thuộc trong Phật Giáo, nhưng đã có mấy người Phật tử chịu tìm hiểu tận tường... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 8508)
Theo Phật giáo, con người sinh ra từ vô thủy (thỉ) đến giờ đã trải qua vô lượng đời, và sẽ còn tiếp nối vô số đời nữa ở tương lai cho đến vô chung... Toàn Không
(Xem: 14522)
Hoa dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền-Trang; Việt dịch: HT Thích Trí-Quang; Anh dịch: Buddhist Text Translation Society
(Xem: 12488)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 8409)
Chúng tôi xin bàn về một số điểm liên hệ, nhất là làm rõ về niên đại Hán dịch của tác phẩm, từ đó chúng tôi xin ghi nhận một số từ ngữ, thuật ngữ Phật học đã được Hán dịch vào thời ấy... Đào Nguyên
(Xem: 10161)
Dù tâm mộ đạo, nhưng Phật tử còn theo nghi lễ xa xưa và kinh điển cổ ngữ, nên việc tu tập không còn phù hợp với nhu cầu của thời đại mới... Johan Galtung, Đỗ Kim Thêm
(Xem: 7760)
Trong việc quảng bá sự hiểu biết, vai trò của người Thầy thật hết sức cần thiết, thế nhưng người Thầy thì cũng phải có đầy đủ khả năng... Hoang Phong
(Xem: 16032)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý. ... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 8216)
Nói đến văn hóa tức là nói đến tổ chức đời sống của một dân tộc, trong đó bao gồm các mặt kinh tế, xã hội, luật lệ, văn chương, mỹ thuật, tôn giáo, v.v... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 8279)
Chân: chân thật, không hư vọng. Như: như thường, không biến đổi, không sai chạy. Chân Như tức là Phật Tánh, cái tánh chân thật, không biến đổi, như nhiên, không thiện, không ác, không sanh không diệt... Lâm Như Tạng
(Xem: 7870)
Thủy Giác: mới tỉnh giác. Cái bổn tánh của hết thảy chúng sanh sẳn có lòng thanh tịnh tự tánh, đủ cái đức vốn chiếu sáng tự thuở nay, đó kêu là Bổn Giác... Lâm Như Tạng
(Xem: 11190)
“Bản Giác : Tâm thể của chúng sinh tự tánh thanh tịnh, lìa mọi vọng tưởng, sáng tỏ vằng vặc, có đức giác tri. Đó chẳng phải do tu thành mà như thế, mà chính là tính đức tự nhiên bản hửu, nên gọi là Bản Giác... Lâm Như Tạng
(Xem: 9139)
Thượng tọa Thích Thuyền Ấn trình bày tại Viện Đại Học Vạn Hạnh vào ngày 9-4-1967. Sau đó, bài diễn thuyết này được in trong tập Diễn Đàn Vạn Hạnh, số 1, do Ban Tu thư Đại Học Vạn Hạnh ấn hành năm 1967.
(Xem: 9279)
Bản Chất Của Tâm Thức - Tác giả: His Holiness the Fourteenth Dalai Lama, Anh dịch: Alexander Berzin, Tuệ Uyển chuyển ngữ
(Xem: 8399)
Niết bàn, nirvana (S), nibbana (P), trong Sanskrit và Pali có nghĩa bóng là, một "thể trạng dập tắt". Hình ảnh của một ngọn lửa đã bị dập tắt qua việc không còn nhiên liệu nữa... Tác giả Alexander Berzin; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 7558)
Long Thọ nói, giáo pháp của Chư Phật y trên hai chân lý, tương đối hay thế tục đế, và tuyệt đối hay thắng nghĩa đế. Những ai không phân biệt được hai chân lý này, không thể hiểu thấu giáo pháp thâm sâu... Thích Tuệ Sỹ
(Xem: 8013)
Kinh Hoa nghiêm, nói một cách đơn giản, là bộ kinh nghiên cứu về Pháp giới và cách phát khởi trí tuệ để thể nhập Pháp giới. Trong Pháp giớilý sự vô ngạisự sự vô ngại... Hồng Dương
(Xem: 8807)
Các nhà khảo cổ phát hiện ra bằng chứng về 1 ngôi chùa Phật giáo cổ nhất chưa từng được khám phá, niên đại khoảng năm 550 TCN... National Geographic
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant