Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 3 Nhân Cách Tâm Lý Học

20 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 4662)
Chương 3 Nhân Cách Tâm Lý Học

CHƯƠNG III
NHÂN CÁCH TÂM LÝ HỌC

NGHIÊN CỨU VỀ NHÂN CÁCH TÂM LÝ HỌC VÀ NHÂN CÁCH PHẬT GIÁO 

 Đứng trên phương diện tâm lý học tây phương để nói thì nhân cách (personality) là mô thức ổn định hành vi cá thể một cách độc đặc, đồng thời sử dụng tư tưởng, cảm giác, tri giác làm cơ sở để thích ứng với hoàn cảnh. Khi nhà tâm lý học nghiên cứu về nhân cách thường chú ý đến đặc chất của cá thể, hình thể của thân thể, thế lực của tiềm ý thức, quá trình tri nhận và các loại xã hội học tập v. v… vì những nhân tố nầy đều là những nhân tố có thể ảnh hưởng đến hành vi của nhân loại

 Tâm lý học hoặc tâm lý phân tích học (Psychoanalysis) của Sigmund Freud cho rằng có ba loại tầng thứ tâm lý, đó là hình thành nhân cách tức ý thức, tiền ý thức (preconsciousness) và tiềm ý thức. Nội dung của ba tần thức nầy dựa theo sự kết hợp của ba sinh vật và thế lực hoàn cảnh mà hình thành ba loại hệ thống tâm lý, tức bản ngã (id), tự ngã (ego) và siêu việt (superego). Học thuyết của Sigmund Freud chủ trương “Tánh” là hạch tâm của động cơ nhân loại. Theo Sigmund Freud thì “Tánh” trong xã hội văn minh thường do các loại áp lực của xã hội và thật khó để có thể được thỏa mãn, bởi vậy mà biến thành nhân tố chủ yếu làm ảnh hưởng đến nhân cách. Nhân cách tùy thuộc vào sự phát triển của tánh mà phát triển, vì thế nên có từng giai đoạn phát triển như khẩu khang kỳ, giang môn kỳ, tánh khí kỳ, tiềm phục kỳ và sanh thực kỳ. 

 Từ đó về sau, bao nhiêu học thuyết, lý luận về nhân cách đều phát nguồn từ học thuyết của Sigmund Freud và được tu chỉnh thêm, và được gọi là “học phái mới Sigmund Freud” (Neo Freudian School). Cuối năm 1930 đến đầu năm 1950, có rất nhiều học sinh của Sigmund Freud đã phát biểu về những kiến giảilý luận về tâm lý phân tích học. Trong đó học đã sử dụng phái Phân Tích Tâm Lý Học (như Carl Jung chủ trương) để nhấn mạnh nhân cách là sự thăng bằng của thế lực ý thức và tiềm ý thức. Phái Cá Nhân Tâm Lý Học (như chủ trương của Alfred Adler) thì cho là vai trò (role) và sự quan hệ của xã hội hình thành nhân cách. Học thuyết Tâm Lý Nhân Tánh (Humanistic theory) tức những vị như Carl Rogers và A. Maslow thì nhấn mạnh rằng nhân cách là tánh độc đặc và kinh nghiệm sinh hoạt đặc thù của cá thể. Lý Luận Học Tập Xã Hội (như B. F. Skinner) thì chú trọng đến thế lực của hoàn cảnh đối với sự ảnh hưởng của nhân cách, cá thể sử dụng phương thức mô phỏng cộng thêm tác dụng tri nhận để cá thể học tập về hành vi. Và còn có một số lý luận khác về nhân cách đã rất chú trọng về kinh nghiệm chủ quan v. v… 

 Phật giáo đối với sự giải thích về nhân cách đã có sự bao hàm của triết học tánh, luân lý tánh và tâm lý tánh. Phật giáo phủ định con người vốn có tự ngã thuần túy cố định (ego) vì nó chỉ là nhân duyên hòa hợp. Do sự quan hệ của nhân duyên hòa hợp mà mỗi con người đều có ý thức, ký ức và thuộc tánh của thân thể để có thể phân biệt Ta, Người (chủ thể, khách thể). Phật giáo tiếp nhận quan điểm cho rằng con người có một nhân cách động thái, giả hợp biến động bất thường, nhân cách chỉ là một loại danh tự của phương tiện được sử dụng để phân biệt giữa Người và Ta mà thôi. Đứng trên Luận Lý Học để nói thì nhân cách nầy có thể là lý tánh và phi lý tánh nhưng chịu trách nhiệm về hành động của chính mình. Ngay trên phương diện của Tâm Lý Học để giải thích thì rất có ý nghĩa, bởi vì nhân cách có ký ức, tư tưởng, cảm giác để thông cấu với người khác. 

 Phân tích một cách nghiêm chỉnh về tâm lý học thì, nhân cách cũng chỉ là một phương tiện giả danh, bởi nó biểu thị cho một loại công năng thống nhất nào đó (unity of function) – như đi, đứng, tri giác, tư tưởng, quyết định v.v… giống như chiếc xe ngựa, do sự kết hợp toàn thể của các bộ phận mới có thể gọi là xe ngựa được; Nhân cách cũng thế, do thân thể, cảm giác, ý thức và tính hướng v. v… tổ hợp mà thành và như thế mới có thể gọi là nhân cách. Tóm lại, nhân cách là một loại thống nhất thể của công năng, chỉ có giả danh của tánh tạm thời. Nhân cách không thể đơn độc tiêu biểu cho thân thể, tri giác, cảm giác mà chỉ có trong sự tổ hợp thích đáng mới có thể được gọi là nhân cách. Sự giải thích này hoàn toàn có sự phù hợp cùng với Phật giáo

ĐẶC CHẤT VÀ LOẠI HÌNH NHÂN CÁCH 

 Đặc chất nhân cách (Persoanlity traits) là nói đến tính đặc sẵn có nơi mỗi nhân cách cá thể, loại đặc sắc nầy có thể xác nhận được. Loại hình nhân cách (Personality types) là chỉ cho sở hữu nhân cách; loại hình đều có thể quy loại thành rất nhiều hình thức cơ bản. 

 Trong Tăng Chi Bộ A Hàm Kinh (Anguttara Nikaya), chúng ta có thể phát hiện bốn loại đặc sắc của nhân cách, tức là những loại hình như Mỹ Đức (Virtue), Thành Thực (Integrity), Cương Nghị (Fortitude) và Trí Huệ v.v… 

 Do sự cư ngụ cố cựu lâu dài tại một nơi chốn mà có thể biết rằng trên phương diện đạo đức của người thường trú này là tốt hoặc có khuyết điểm, điều đó cũng có nghĩa bảo rằng có thể nhận xét rõ là ông ta có đạo đức tốt đẹp hay không; xử lý sự vật với người khác khiến có thể nhận thấy rõ ràng họ là người không thành thật; trong những khi nguy hiểm giáng xuống hoặc bất hạnh đã xảy đến thì có thể đoán định được trình độ cương nghị của một con người; giao đàm với người thì có thể tri nhận được là họ có trí huệ hay không. 

 Sự phân loại đặc chất nhân cách chủ yếu của Phật giáo là nhắm vào xích lộ luân lýtâm lý để đo lường. 

 Kinh Phật (Visuddhimagga) cũng đã chia nhân cách làm 6 loại hình lớn, đó là tham lam (tham), ghét hận (sân), vọng tưởng (si), trung thực, thông minh (huệ) và tản mạn. 

XUNG ĐỘT VÀ TỎA CHIẾT (NGĂN TRỞ THẤT BẠI) (CONFLICT AND FRUSTRATION) 

 Xung đột cũng tức là hai cái hoặc hai mục tiêu (goals) hoặc nhu yếu (needs) đưa dẫn đến tình cảnh bất an khi không thể tương dung lẫn nhau. Xung đột có thê/ chia làm ba loại, đó là chánh-chánh xung đột (approach-approach conflict), tức loại xung đột khi muốn lấy một trong hai mục tiêu của nghĩ muốn; Phụ-phụ xung đột (Avoidance-avoidance conflict) là hai mục tiêu đều không nghĩ muốn, xung đột xảy ra khi muốn lấy một; Chánh-phụ xung đột (Approach-avoidance conflict) là loại xung đột của một mục tiêu mà có hai loại thành phần chánh phụ trong ấy (ví dụ như, một người đàn bà đẹp nhưng mang nhiều bệnh tật). Giải quyết sự xung đột đương nhiên liên hệ đến nhân tố quyết định của nó và khoảng cách xa gần của mục tiêu, động cơ cá nhân, cường độ nhu yếu cá nhân, hạ quyết tâm, thời gian tính, kỳ vọng cá nhân v.v… 

 Sự trắc trở, thất bại đối với những quyết định hoặc muốn đạt đến mục đích nhưng phải chịu sự trở ngại giữa đường. Cũng có sự trắc trở bởi hoàn cảnh như người nhà bị chết; có những trắc trở bởi yếu tố thể chất, như quá thấp lùn sinh ra tướng tá xấu xí khó coi; có nhân tố xã hội như ly hôn, thất nghiệp v.v… 

 Phương thức đối phó với sự trắc trở, thất bại gồm có công kích (gián tiếp công kích và trực tiếp công kích), ảo tưởng và co rút (tỉ như, đàn bà xấu xí gặp phải nhiều trắc trở thất bại, có ảo tưởng mình là tài tử Elizabeth Taylor, và trở về với những hành vi trẻ con – như khóc lóc ồn ào, lạnh lùng và tiêu trầm v.v…) 

 Đức Phật dạy rằng trên cơ bản, sự xung độtbình an, thanh tịnh có thể kiểm nghiệm từ hai tầng thứ : Niết bàn (Nirvanà) là thanh tịnh, hài hòa một cách tuyệt đối; còn đau khổ (dukkha) thì dẫy đầy sự bất an, khẩn trương và xung đột. Giữa sự hài hòa (mục tiêu truy cầu lý tưởng của người tại gia) và thanh tịnh tuyệt đối (là lý tưởng truy cầu của người xuất gia) cũng có rất nhiều khác biệt. Người tại gia chánh trực nếu tuân theo thủ đoạn hợp pháp để làm giàu, không tham lam thì có công đức và hơn nữa có thể đạt được sự hài hòa; nếu người tại gia khởi lên tâm tham lam, khát cầu sự hưởng thụ quá độ thì chắc chắn là bị xung đột với người khác. Người xuất gia vì xả bỏ tất cả, không những có khả năng giải trừ đau khổ mà hơn nữa còn có thể truy tầm sự thanh tịnh cao nhất trong nội tâm của họ. 

 Phật giáo cho rằng khu lực (drive) mạnh mẽ truy cầu thỏa mãn cảm quan, truy cầu sự tân kỳ, hưng phấn, vật sở hữu, đều là máy phát điện của sự xung đột

 Phật giáo giải thích về những trắc trở, thất bại rằng là : khoái lạc và kích thích một khi cái mà chúng ta truy tầm kết quả biến thành rỗng tuếch thì sanh ra trắc trở, thất bại nặng nề. Loại trắc trở thất bại sâu nặng hơn nầy không tức khắc xuất hiện qua tri giác toàn diện giống như sự trắc trở thất bại khi mất đi mục tiêu đặc biệt

 Ngoài sự trắc trở vì truy cầu thỏa mãn cảm quan đã gây nên, Phật giáo còn đề ra sự xung đột tâm lý của tự ngã bảo tồn (cảm quan, quyền lực, địa vị, danh vọng), một người có khu lực quyền lực mạnh mẽ thì sự xung đột tâm lý cũng to lớn và sự trắc trở, cảm giác trở ngại cũng tương đối to lớn. Khi cảm giác trắc trở lên đến cao điểm là không thể tiếp nhận thì con người hiển nhiên lập tức gặp một loại hiện tương hy hữu đó là dục vọng và khát vọng muốn hủy diệt tự ngã. 

 Vì thế, sự xung độttâm lý học Phật giáo đã đề cập như phân tích động cơ căn nguyên dục cầu truy cầu thỏa mãn cảm quan, bảo tồn tự ngã, hủy diệt tự ngã và tham lam, ghét hận v.v… cùng với tâm lý học hiện đại tương đối có điểm tương thông. 

PHƯƠNG THỨC PHÒNG VỆ (DEFENSE MECHANISM) 

 Phương thức phòng vệ là tinh tâm kiệt tác của Sigmund Freud và Anna, con gái của ông; phương thức nầy nói về quá trình nhân loại lợi dụng tiềm ý thức nên đối với sự liễu giải chân thật đã bị bóp méo, thay đổi và cải biến, nhất là khi chân thậtcảm giác tội lỗi (feelings of guilt), kinh nghiệm bi thương, xung động, không thể tiếp nhận, thất ý, và khi những sự việc khác có liên quan dẫn khởi một cách khẩn trương. 

 Tuy nhiên, phương thức phòng vệ đã không có biện pháp duy hộ của áp lực tâm lý cá thể, vì thế cũng có thể nói đó là một loại dối lừa tự ngã và trục trặc tự ngã (self-deceptive and self-defeating), không có biện pháp nào có thể giải quyết sự áp lực của tâm lý, bởi vì quá trình của phương thức phòng vệ phát sinh ngay trong tầng thứ tiềm ý thức, con người sử dụng nó làm bình phong và nơi nương tựa kiên cố lớn lao mỗi khi phát sinh nóng nảy, lo lắng, bất an và đã không cảm thấy đó là một thứ thủ đoạn của sự thật bị bẽ cong bóp méo; lý do là trong sự sinh hoạt của mỗi một con người đều sẽ gặp phải những tình cảnh bấtan như tội ác, sợ sệt khủng hoảng, bất an, mục tiêu bị trở ngại v.v… vì thế, dường như mỗi cá nhân đều sẽ lợi dụng phương thức phòng vệ để bảo hộ chính mình. 

 Những phương thức phòng vệ gồm có

Áp chế (regression), mục đích là khiến cho đau khổ, tư tưởng của tánh uy hiếp, cảm giác, ký ức và quá trình ảo tưởng không tiến vào được trong ý thức hoặc tri giác cá thể

Hợp lý hóa (Rationalization) là ý đồ tìm kiếm lý do hợp lý để thay thế thất vọng, nói một cách khác, tìm lý lẽ không thực để thay thế lý do chân chính. Ví như một học sinh gian lận trong việc thi cử thì thường biện hộhọc sinh nào mà chẳng gian lận; một cô gái không được mời tham dự dạ hội thì bào chữa căn bản là cô ấy đã không bằng lòng chấp nhận lời mời

Đầu Xạ (Projection) là sự đổ thừa nơi người khác, tất cả đều diễn giải rằng đó là sự sai lầm của người khác. 

Tác dụng nghịch thi (reaction formation) là sự kinh hãi đối với xung động và tư tưởng, không những chỉ cố gắng ép chế mà còn phát triển một thái độ mô thức và hành vi hoàn toàn tương phản để che đậy động cơ và hành vi chân chính của tiềm ý thức ấy, trường hợp như một người có tánh nóng nảy bức xúc, lo lắng, bất an có thể xin vào viện thần học để chuẩn bị làm mục sư hoặc nữ tu chẳng hạn. 

Đồng Nhận (Identification), sự nhận quàng quen biết này là vì bảo vệ giá trị cảm nhận của chính mình, cá thể thường đưa ra những bình luận chung chung với một số nhân vật có danh vọng hoặc oai quyền, như Tổng Thống Mỹ Carter là bạn thân của tôi v.v… 

Thăng hoa (Sublimation), là mục tiêu hoạt động lợi dụng xã hội có thể chấp nhận nhằm thỏa mãn động cơ áp chế của xã hội ấy, chẳng hạn như làm một kiểm tra viên điện ảnh để có thể xem phim X mà không cảm thấymặc cảm tội lỗi
Phủ nhận hiện thực (denial of reality) là những gì không vui hoặc tư tưởng đưa đến sự bất an, bất cần (thờ ơ), thì phủ nhận bằng cách nghĩ rằng việc nầy chưa từng được tồn tại

 Căn cứ theo tâm lý học của Phật giáo, thì việc sử dụng phương pháp nhất tâm chuyên chú sẽ khiến cho con ngườithể đạt đến bộ phận ẩn tối và thâm tàng nhất của tâm linh; công phu thiền định có thể giúp đỡ chúng ta kiểm tra tỉ mỉ tư tưởng của chúng ta, vì thế mà không cần phải sử dụng đến phương thức phòng vệ. 

 Tác dụng nghịch thi (Reaction formation) trong phương thức phòng vệ, thi dụng đối với kẻ chủ nghĩa cấm dục (sinh hoạt khổ hạnh), dùng để tịnh hóa cảm quan nhưng đức Phật đã khiển trách phương pháp nầy, lý do là vì chủ nghĩa cấm dụccon đường cực đoan không có ý nghĩa nào cả. Thăng hoa là điều đã được đức Phật nêu ra để giới thiệu, bởi lẽ dục cầu trung tâm tự ngã có thể được thay thế bằng dục cầu Niết bàn

NHÂN CÁCH VÀ XÃ HỘI 

 Đói khátphản ứng nội tại của sinh lý, dục tánh thì có khuynh hướng sinh lýxã hội, ngoài ra dục vọng quyền lực, khu lực (drive for power), danh vọngđịa vị là quá trình hoạt động xã hội hỗ tương

 Đức Phật tiếp nhận ý nghĩa trọng yếu về sự quan hệ hỗ tương của con ngườihoàn cảnh xã hội

 Đức Phật tán thán rằng luân lý xã hội có thể giúp cho con người kiến lập một quan hệ nhân tế lành mạnh và một lý tưởng xã hội hài hòa. Mục tiêu trị liệu (nhân tâm) của đức Phật đặt trên tâm lý khí chất của cá nhân biến hóa, đức Phật truy tìm tung tích về sự xung đột căn bản của xã hội và đã tri nhận là nó được bắt nguồn từ tham lam, thù hận và vọng tưởng về tự ngã.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14339)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
(Xem: 11500)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
(Xem: 12669)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12278)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11058)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10932)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13387)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11809)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13692)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11928)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11192)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12241)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12433)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20627)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12456)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12476)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11744)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11616)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22455)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13604)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29732)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11567)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16775)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12027)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16871)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12095)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17949)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12678)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13200)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14795)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22664)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10610)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14087)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13897)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13745)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13889)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13965)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14851)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13886)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18444)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22837)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15419)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17348)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22433)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14285)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12615)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11215)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17791)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13227)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13131)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18833)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17204)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13545)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12944)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14718)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14688)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15900)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13542)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27465)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13272)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant