Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 5 Nguyên Lý Tâm Lý Học Phật Giáo Và Bệnh Lý Xã Hội Đương Tiền

20 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 4611)
Chương 5 Nguyên Lý Tâm Lý Học Phật Giáo Và Bệnh Lý Xã Hội Đương Tiền

CHƯƠNG V
NGUYÊN LÝ TÂM LÝ HỌC PHẬTGIÁO
VÀ BỆNH LÝ XÃ HỘI ĐƯƠNG TIỀN


SỰ CẢI QUAN CỦA TÂM LÝ TRỊ LIỆU 

 Rollo May thảo luận đến “vấn đề khu vực” (problem areas) khi biến đổi một cách trọng đại trên phương diện Bệnh Lý Học tâm lý, ông đã giác sát đến 20 thế kỷ của thời kỳ đầu tiên, sự chú trọng đến vấn đề khó khăn của con người ngay trên phương diện bản năng, nhất là vấn đề phương diện tánh đã chiếm cứ toàn thể tâm tư của Sigmund Freud. Otto Rank và Alfred Alder thì biến đổi hứng thú đối với sự chuyên môn nghiên cứu vấn đề tự ti cảm, tội cảm và vấn đề không thích đáng trên mặt tinh thần. Chủ đề của nữ tướng của tân phái Sigmund Freud, bà Karen Horney, thì lại đặt trên sự xung đột cá thể và đoàn thể. Điểm nóng bỏng chủ yếu trong đời sống hiện nay thì lại đặt trên vấn đề bất an, cô đơn quạnh quẽ (loneliness) và trống rỗng hoang vu (emptiness). 

 Rollo May đã từng bảo : “Vấn đề của hiện tại không nằm ở chỗ xã hội cấm kỵ về hoạt động tánh hoặc là tội cảm của bản thân tánh mà trên thực tế nếu đối với rất nhiều người để nói thì tánh là kinh nghiệm, cơ giới thức là trống không và vô mục đích. Ông ta còn nêu rõ ràng loại “nội tâm trống vắng” nầy không nên chỉ giới hạn ở phòng chẩn đoán của bác sĩ tâm lý trị liệu mà nên sưu tập thêm nhiều tư liệu xã hội học để chứng thực một cách rộng rãi sự tồn tại của hiện tượng nầy. 

 Bệnh lý xã hội ngày nay như đã được đề ra với kiện tướng tân học phái Sigmund Freud là Erik Erikson đó là nguy cơ đồng nhất, đồng dạng (identity crisis) tức trong 8 giai đoạn (từ nhỏ đến già) của sự phát triển nhân cách, cá thể cần phải đạt thành đồng nhất cảm một cách chánh diện (như tự ngã xác nhận, thành tựu kỳ vọng, tánh đồng nhất v.v…), nếu không nhiễu loạn vai trò của cá thể, thì cũng sản sanh ra sự xa lìa, cách biệt (bệnh tinh thần) (alienation). Cái gọi là sơ ly (mối bất đồng, sự xa lánh) chính là lúc không thể nào giải quyết được nguy cơ đồng nhất, nên bèn sanh ra sự không tín nhiệm người khác, vô năng cảm v.v… do vậy lại càng cho rằng thế giới chung quanh là hiện tượng lạnh buốt như băng và đây chính là điểm đặc sắc của sơ ly (sự xa lánh). Học thuyết Erik Erikson đã không chỉ là tâm lý học mà còn có thêm xã hội học, quan điểm và sắc thái của nhân loại học… 

CÁ THỂ CỦA VÔ BIỂU TÌNH TRONG THẾGIỚI BIẾN THIÊN 

 Trong xã hội hiện đại và dưới thể chế kinh tế, vi phản nhân tánh là một sự kiện rất rõ ràng : cơ giới hóa và phân công lao lực đã khiến cho công nhân trở thành nô lệ một cách máy móc, công tác biến thành đon điệu, phiền chán và không có mảy may ý nghĩa nào. Sự hứng khởi to lớn của công xưởng được vận tác dưới thể chế quan liêu, công tác tập quán của cơ giới thức đã làm cho công nhân cảm nghiệm một cách sâu sắc về tâm bất xứng đối với công việc của chính mình. Thêm vào đó sau khi bị đô thị hóa, sinh hoạt của đô thị bị rơi vào tình trạng khẩn trương, thiếu an lạc, lưu động dời đổi luôn luôn đã khiến cho con người hình thành cảm giác vô cănvô năng

 Thiếu mục tiêu nội tại để chỉ đạo sinh mạng cá thể đã khiến cho cách điệu sinh mạng của sự không chân thật dẫm nát tâm linh. Thường xuyên cự tuyệt nhận thức của chính mình, khiến sự trưởng thành của tự ngà nhận (self-knowledge) bị cản trở. Thiếu tự ngã nhận thức và tự ngã hướng đạo (self-direction) là đặc sắc của con người hiện đại của chúng ta. Tình thế nầy, không những chỉ sáng tạo ra một loại nhân cách lẻ nát và thương tàn, mà còn khiến cho chúng ta và người khác trong vấn đề kiến lập sự quan hệ ấm áp sẽ biến thành ảnh bọt (bèo bọt và hình bóng), vì thế khiến cho con người biến thành một loại người bệnh thái của đạo hình (other-oriented). Do sự cạn cùng trống vắng của nội tại và vì để trốn tránh một nội tại trống hoang nên đã khiến cho con người hướng theo người khác và có ý đồ tìm đến những nơi cần viện trợ, nhưng, kết quả là cả hai bên đều trống rỗng, đây chính là đô thị bệnh thái (sick cities) của tâm cảnh nhân loại

 Cá thể, xã hộikhông gian tâm lýxã hội đã sáng tạo là một loại bệnh thái xã hội, cho nên tâm bệnh lý học (vốn là để chữa trị những người có hành vi đặc thù thất thường) hiện tại cần phải mở rộng cơ sở và cải biến mục tiêu trị liệu

NGUY CƠ ĐỒNG NHẬN DƯỚI SỰ PHÂN TÍCH TÂM LÝ HỌC PHẬT GIÁO

 Phật giáo đề ra hai phương diện để nhận xét
Gia tăng trùng kiến “người chân chính” (authentic person), vì con người xã hội hiện đại thiếu tự ngã nhận thức và tự ngã hướng đạo. Do vậy chủ trương làm cho con người có được sự thâm tỉnh của Phật giáo có thể ứng hợp với nhu cầu của con người hiện đại, hơn nữa, chủ trương nầy của Phật giáo có thể phối hợp lẫn nhau với Tâm lý học nhân tính và Tâm lý học tồn tại
Ứng dụng của tâm lý học Phật giáo, tức là dùng quan điểm vô ngã để đối phó với nguy cơ đồng nhận, dùng vô ngã để phá trừ tự ngã lân ái (self-love), tự ngã ghét hận (self-hatred), tự ngã trừng phạt (self-punishment) và tự ngã chấp trước (ego-attachment) v.v… 

TỰ LUYẾN (NARCISSISM) 

 Căn cứ theo Orrine Klapp thì sau khi kiểm nghiệm có sự liên quan đến chứng trạng cộng đồng của vấn đề đồng nhận đã chỉ rõ : Tự ngã quan tâm quá đáng với tự luyến là khởi nhân của vấn đề nhận đồng. Tự luyến phát nguồn ở câu chuyện của một nhân vật thần thoại Hy Lạp là Narcissus đã ôm bóng hình của sự tiếc thương và gieo mình xuống nước. Sigmund Freud lợi dụng câu chuyện nầy để giải thích về tâm lý bệnh hoạn đối với sự chấp trước bệnh lý bản thân. Người tự luyến không những đối với thân thể mình cảm thấy kiêu ngạo, mà còn phát triển ý đồ cố chấpđịa vị xã hội, tài sản, phong thượng, khái niệm và ý thức hình thái. Đức Phật từng dạy tôn giả A Nan (Ananda) rằng : “Do bởi thân thể nên dẫn lên giả tưởng ngã và cảm giác, tri giác, hoạt độngý thức khác, đây là do ở giả tưởng hữu ngã mà suy diễn ra”. 

 Ngoài ra, tự hận (self-hatred) là phản ứng được tạo tác bởi tiêu trầm và ưu uất đối với tự luyến, là mặt phủ định của tự luyến. Tự hận cũng có thể nói là “Đồng nhận tuyệt vọng” (Identity despair), thông thường xảy ra ở thời kỳ cuối cùng của sinh mạng. Đồng nhận tuyệt vọng có thể đưa đến việc tự sát, rất nhiều người cũng đã trải qua một loại liều lĩnh tuyệt vọng một cách lặng lẽ (quiet desperation). 

CÔ ĐƠN, CÔ TỊCH (LONELINESS) 

 David Riesman trong sách “Quần chúng Cô Đơn” (Lonely Crowd) đã đề cập đến tình trạng nhân loại bị cưỡng bách xã giao tánh (compulsive gregrariousness) như tham gia câu lạc bộ và những tình hình cuồng nhiệt để bù vào những hoạt động trong lúc hư nhàn. Chúng ta có thể phát hiện được hiện tượng quái gỡ của nhân loại đó là sự trốn chạy tự ngã và ý đồ gia nhập đoàn thể có hành vi hành liệt. Rollo May cho rằng loại bệnh lý nầy là hành vi ngoại đạo hình (other-oriented), là hành vi được tạo tác bởi sự hãi sợ đối với sự cô đơn của nhân loại

 Căn cứ theo sự phân tích của Phật giáo thì có sự khu biệt giữa “cô tịch” (being lonely) và “đơn độc” hoặc “cô độc” (being alone) đã không có năng lực đi qua kinh nghiệm cô độc và không thích nghỉ ngơi một mình là do e sợ sự đơn độc. Bản thân cô tịch gồm có những phương diện như : cô lập dưới sự chế ước của văn hóa, nỗi cô tịch vì mất sự tôn trọng của người khác, trạng thái cô đơn dưới sự ép buộc của bệnh tật v.v… Tình trạng trốn tránh tự ngã là hình thức cô tịch đối với sự so sánh thông thường. 

 Phật giáo cho rằng kinh nghiệm cô độc là sự tầm cầu phương thức nội tỉnh tôn giáo một cách sâu sắc, loại kinh nghiệm nầy có sự khác biệt với nhu cầu cô độc nên thân cận với sơn thủy tự nhiên. Người xuất gia độn ẩn, người tại gia thiền định thực tiễn và phân tích tự ngã, hưởng thụ một thứ diệu lạc độc xứ đó là điểm Phật giáo tán thán, bởi vì sinh hoạt thiền định có thể giúp làm phong phú thêm đối với sự quan hệ xã hội giữa người và người và đồng thời cũng để con người càng có được thâm kiến và phát hiện được ý nghĩa của sanh mạng càng có thể phát huy được tác dụng tinh thần thì có thể xa lìa được sư cô liêu và phiền chán. 

 Phật giáo lại đề ra một loại kiến giải khác : Trên xã hội, cần kiến lập sự quan hệ nhân tế thành thục về sự tôn kính lẫn nhau và quan tâm đến người khác. Nhưng, quan hệ của loại nhân tế nầy và sự chung sống lẫn nhau và nương tựa vào nhau để hoạt động của bệnh thái ngoại đạo hình đã có sự khu biệt. 

CẢM TÍNH VÀ PHIỀN CHÁN (SENSUALITY AND BOREDOM) 

 Sự truy cầu khoái lạc cảm quan và sự truy lạc bại hoại nhân tánh của tính sinh hoạt đều có thể khiến cho nguy cơ đồng nhận thăng tiến; nhưng, phát triển một loại cách điệu sinh hoạt Phật giáo (Buddhist life-style) mới là nhiệm vụ chính yếu đối với hiện tại

 Theo đuổi sự biến thiên nhanh chóng, không ngừng tầm cầu sự biến hóa, và sau đó thì phiền chán, ảo diệt, có thể tìm thấy trong sách “Hoặc Đây Hoặc Đó” (Either Or) tác phẩm của Soren Kiekegard, Don Juan - người anh hùng của sắc tình lãng mạn trong câu chuyện truyền kỳ của Tây Ban Nha, là nhân vật đại biểu cho một loại hình khác, ông ta được quy loại là nhân vận thuộc sắc dục hình (lustful type). 

 Người thanh niên hiện đại, sau khi đuổi theo những âm thanhhình sắc, kế đến là phát hiện rằng sự quan hệ của nhân loại đã và đang thiếu vắng sự quan tâm chân chính về ái tình và mức độ thân thiết. Nhưng, từ trong đồng nhận tánh đã thấy được tâm lý học nhân tánh và luân lý học của Phật giáo rằng là chúng a có thể được thương yêu một cách chân chính, lương thiệntôn kính với tâm từ bi sâu xa vô lượng

 Kết quả theo đuổi của Don Juan sẽ sanh ra sự phiền chán, ưu uất, đau khổtuyệt vọng; vì vậy mà bảo rằng lý tưởng của Don Juan không thể biến thành triết học nhân sinh trường kỳ một cách thống nhất (consistent pholosophy of life). Phiền chán là một chứng trạng sâu nặng nhất trong vấn đề đồng nhận ngày nay. Phiền chán gồm có hai loại đó là do mục tiêu đặc thù gây nên (như hí kịch, sách vở v.v…) và không có mục tiêu nào cả, và đó là sự phiền chán được dẫn phát từ chính mình. Nếu chúng ta có thể dùng nội tỉnh để nắm vững cái “rỗng tuếch của vô danh” (nameless emptiness) nhằm tiến vào cửa ngõ trí tuệ thì có thể khắc phục tất cả một cách triệt để

TIÊU CỰCTÍCH CỰC ĐỐI PHÓ VỚI TRỐNG RỖNG 

 Trống rỗng, phiền chán, cô đơn, cô tịch và ọe mửa nội tại đã biến thành nghệ thuật và văn học cho đến ngay cả trong bộ phận lãnh vực của triết học đương kim. 

 Phật giáo đối với kinh nghiệm của không vô cùng đã thái dụng lấy hai loại phương pháp, đó là phủ định để đối phó với trống rỗng và phiền chán. Một loại khác là tích cực dùng Nội Tỉnh Pháp để liễu giải một cách rốt ráo rằng tính chất của thực tạihoàn toàn không có bản chất nội tại, không có kinh nghiệm của tự ngã vĩnh hằng và tâm linh đối với không tánh

 Do sự nghèo nàn của nội tại mà con người hiện đại đã không có đủ năng lực để biến đổi tánh tiêu cực thành tánh tích cực nhằm tiến tới quán sát một cách thấu suốt tính chất của thực tại

 Tự ngã và không vôchủ đề trung tâm của giáo nghĩa Phật giáo, chuyên gia Phật học Edward Conze đã từng bảo rằng không tánh theo Phạn văn “sùnya” cũng có ý nghĩa là nở lớn (trướng đại) (svi or swell), tức là nhìn từ ngoại biểu của một vật và đưa dẫn đến sự trướng đại; nhưng, nội bộ thì lại là Không. Đứng trên thuật ngữ Phật học để nói thì Ngũ Uẩn thuộc bộ phận ngoại biểu (biểu lộ bên ngoài) nở lớn nhưng bên trong thì hoàn toàn vô ngã, là Không. 

 Chỉ khi nào đi sâu vào thực tại mới liễu giải được một cách trọn vẹn nhân sinhthống khổquan niệm về vô ngã, và, như thế chúng ta mới có thể vượt qua tâm thức phiền chán tiêu cực và bệnh trống vắng, KHÔNG VÔ của thời đại một cách rốt ráo.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8258)
Giới Thiệu Tóm Tắt Về Bộ Trung Quán Trong Tạng Luận Theo Đại Tạng Kinh Đại Chánh Tân Tu ... Đào Nguyên
(Xem: 7843)
Thưa Đại Vương, những người, có được tài sản lớn, mà không bị chúng làm say đắm... rất hiếm hoi trên đời này... Diệu Liên Lý Thu Linh
(Xem: 7902)
Bạo lực, khủng bố đã xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau trong những trường hợp khác nhau có liên quan đến cuộc đời của đức Phật... Thích Huệ Pháp dịch
(Xem: 9014)
Chánh Ngoa Tập (Uốn nắn những điều sai ngoa) trích từ bộ Vân Thê Pháp Vựng, Đời Minh, chùa Vân Thê ở Cổ Hàng, Sa-môn Châu Hoằng soạn, Như Hòa dịch.
(Xem: 26202)
Từ điển bách khoa Phật giáo Việt Nam, Tập 1 và 2; HT Thích Trí Thủ chủ trương, Lê Mạnh Thát chủ biên
(Xem: 13873)
Các tác phẩm Phật giáo viết bằng Buddhist Hybrid Sanskrit xuất hiện sau khi Pāṇini đã hoàn thành việc chuẩn hóa tiếng Phạn vào khoảng đầu thế kỷ thứ 4 trước dương lịch.
(Xem: 28040)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 19895)
Tu Tuệ là cách tu tập bằng thiền định phân giải, tức hướng vào mục tiêu phát huy sự hiểu biết, một sự hiểu biết siêu nhiên về bản chất đích thực của mọi vật thể và mọi biến cố...
(Xem: 7800)
Nghiệp không phát động từ bên ngoài mà sinh ra từ bên trong tâm thức của chính mình. Mỗi hành động (karma) đều tạo ra một hậu quả.
(Xem: 7645)
Làm sống lại những tiến bộ của người xưa, mỗi Phật tử sẽ trở thành gạch nối giữa quá khứhiện tại... Đỗ Thuần Khiêm
(Xem: 7515)
Khái quát trên đủ thấy Ðại Tạng kinh Hán văn là một bảo vật vô giá của Phật giáo và chung cho cả nền văn hóa thế giới... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 8067)
Cũng giống như trong Phật giáo, vạn pháp không hiện hữu, chỉ có mối liên hệ của chúng là hiện hữu... Trịnh Xuân Thuận
(Xem: 9772)
Trên thực tế, tất cả giáo huấn của Đức Phật đều nhằm giúp chúng ta vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Phương pháp tiếp cận thật sự rất hợp lýthực tiễn.
(Xem: 22794)
Phật Giáo Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của nó luôn luôn gắn liền với dòng sinh mệnh của dân tộc... Trần Tri Khách
(Xem: 16948)
Khi Đức Phật ra đời, Ngài đã chỉ bày rõ ràng, cặn kẽ cho người xuất gia cũng như người tại gia ở từng địa hạt một của tâm linh... HT Thích Như Điển
(Xem: 8593)
Đức Phật A Di Đà không tự làm cho tội của chúng sanh tự tiêu hủy, mà cảnh giới của Ngài là nơi những chúng sanh ấy có thể nương nào đó để tồn tạitiến tu thêm nữa... HT Thích Như Điển
(Xem: 10428)
Phương pháp chuyển hóa tâm thức của Đạo Phật không chỉ là một vấn đề niềm tin mà cũng là một niềm tin đạt đến được qua thiền phân tích... Đức Đạt Lai Lạt Ma
(Xem: 10607)
Sau khi dạy cho chúng ta hiểu khổ là gì và nguồn gốc của khổ, Đức Phật đã chỉ cho chúng ta con đường diệt khổ, tức là Bát Chánh Đạo...
(Xem: 11294)
Theo truyền thống tín ngưỡng của dân gian, có lẽ hình tượng 2 vị Thần TàiThổ Địa không xa lạ gì với người dân Việt Nam.
(Xem: 9916)
Phật giáo Mỹ sẽ phải phản ánh những nguyên tắc dân chủ, trong cái nghĩa “tự do và công lý cho mọi người”.
(Xem: 10593)
Muốn được giải thoát, trước hết chúng ta phải quan sát sự vật một cách thật cặn kẽ để có thể biết được và hiểu rõ bản chất thật sự của chúng.
(Xem: 12737)
Ý niệm về kinh liễu nghĩa và kinh không liễu nghĩa song hành với ý niệm về hai sự thật: Sự Thật Tương ĐốiSự Thật Tuyệt Đối.
(Xem: 8822)
Bản-thể-của-Phật còn gọi là Như Lai Tạng, Phật Tính, Pháp Giới, Chân Như... (tiếng Phạn là Tathagatagarbha), là một khái niệm quan trọng của Đại Thừa Phật Giáo.
(Xem: 19892)
Khi gọi là điều đạo đức, người ứng dụng hành trì sẽ cảm thấy có nhu cầu hướng tới, bởi điều đạo đức luôn mang đến hạnh phúc an lành cho con người.
(Xem: 20870)
Bát chánh đạocon đường tâm linh có khả năng giúp cho người phàm trở thành bậc Thánh. Trước hết là Chánh kiến, tức tầm nhìn chân chính...
(Xem: 21423)
Đọc Bát Đại Nhân Giác để trải nghiệm các giá trị cao siêu trong từng nếp sống bình dị, theo đó hành giả có thể tự mình mở mắt tuệ giác, trở thành bậc đại nhân...
(Xem: 13475)
Phật pháp ẩn tàng trong tất cả sự sự vật vật, và con đường giác ngộNhư Lai tuyên thuyết vốn dành cho tất cả chúng sinh có duyên được tiếp cận với đạo Phật.
(Xem: 10586)
Biết thân là huyễn mộng còn khó vứt bỏ huống hồ người chẳng giải ngộ. Nương vào lời Phật mà hành, tự ta mới có thể chuyển mệnh...
(Xem: 9559)
Sáu ba-la-mật là Bồ-tát hạnh. Bồ-tát hạnh gồm có hai sự tích tập: tích tập phước đức là làm lợi lạc cho người khác và tích tập trí huệ là xóa tan bóng tối vô minh...
(Xem: 26800)
Theo giáo lý đạo Phật, không ai có thể siêu độ cho ai, không ai có thể giải thoát cho ai, ngoại trừ chính cá nhân người đó.
(Xem: 10766)
Những Tỷ-kheo trong hội chúng bậc Thánh rõ biết “Đây là khổ”. Vì thấy rõ khổ nên nhàm chán, viễn ly, không tham danh vọng...
(Xem: 12153)
Trung quán tông luận phá mọi kiến giải về Thực tướng, không phải để phủ nhận Thực tướng mà để đưa đến Prajña (trí tuệ Bát-nhã)...
(Xem: 30956)
Đây là bộ sách trích lục những từ ngữ trong phần “Chú Thích” và “Phụ Chú” của bộ sách GIÁO KHOA PHẬT HỌC do chúng tôi soạn dịch...
(Xem: 14160)
Người Phật tử, dù là xuất gia hay tại gia đều không thể sống buông thả, phóng dật. Bởi lẽ, chúng ta nhận thức đời người là vốn quý, cuộc sống lại có hạn.
(Xem: 11175)
Môn Nhân minh học Phật giáo dạy chúng ta tư duy đúng đắn để có nhận thức đúng đắn, là chìa khóa của mọi thành công ở đời.
(Xem: 11116)
Ý thức sâu sắc của người Phật tử đối với tầm quan trọng thực tiễn của hiện tại khiến cho họ năng động hơn, tỉnh táo hơn, làm việc hết mình trong hiện tại.
(Xem: 11262)
Đạo Phật nhắc nhủ chúng ta, muốn giác ngộgiải thoát, đi theo con đường Phật chỉ bày thì phải đi, phải tu, chứ không thể nói suông được.
(Xem: 11656)
Tất cả Phật tử chúng ta hãy sống thiện như những cái cây có bộ rễ toàn hút những chất ngọt trong đất. Nhất định đời sống chúng ta sẽ an lạc hạnh phúc.
(Xem: 12769)
Để dạy Vô ngãVô phân biệt trong khi hành động theo cách phân biệt kỳ thị là không phù hợp lời nói với hành động.
(Xem: 24090)
Kiến thức là gì? Nó đã được thu thập hàng nghìn năm qua hằng bao kinh nghiệm, tích trữ trong trí não như kiến thức và ký ức. Và từ ký ức đó, tư tưởng (thought) phát sanh.
(Xem: 14938)
Hiện tại là giờ phút duy nhất mà mình có thể chọc thủng được bức màn thương đau, bức màn vô minh để có thể tiếp xúc được ngay với an lạc, với hạnh phúc, với tuệ giác.
(Xem: 11658)
Góp duyên để người xuất gia hoàn thành sứ mạng thiêng liêng đồng nghĩa với hạnh nguyện hộ pháp.
(Xem: 20287)
Nếu ai bị ái làm khổ thân mà diệt được thì gọi là cứu cánh, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh an ổn, cứu cánh vô dư (Niết-Bàn).
(Xem: 10630)
Trong các thứ hạnh phúc, được thực tập và sống theo lời Phật dạy là an vui, hạnh phúc lớn nhất. Nhờ đó, ta có được bình yên, hạnh phúc thật sự...
(Xem: 10405)
Muốn vô hiệu hóa cơn giận, trước khi nó bộc phát, Phật dạy ta hãy thường xuyên quán chiếu, xem xét sâu vào nội tâm để ta luôn tỉnh giác từng tâm niệm của mình.
(Xem: 12306)
Xin hãy đọc Kinh điển với tâm sáng suốt thanh tịnh, không vội tin chắc vào bất kỳ điều gì, mà phải nỗ lực thông qua sự hành trì thực nghiệm...
(Xem: 11514)
Sự thật về mọi sự là vô thường, khổ, vô tự tánh, vô ngã, giả hợp, như mộng, như huyễn được đạo Phật gọi là chân lý tuyệt đối, tối hậu (chân đế).
(Xem: 14312)
Cùng với chánh niệm thường trực, tàm và quý chính là hai nhân tố vô cùng quan trọng để mỗi người tự răn nhắc mình hướng thượng và thăng hoa.
(Xem: 11970)
Do định sinh trí huệ, dùng trí huệ này quán sát các pháp sẽ thấy biết như thật, quán sát vũ trụ vạn vật đúng như nó là, không sai sót mảy may.
(Xem: 24677)
Những gì Đức Phật dạy chúng ta, bằng hai con đường: tâm linh và khoa học con người sẽ đạt được cứu cánh giải thoát khỏi tất cả mọi ràng buộc...
(Xem: 12372)
Chúng ta phải cố gắng loại trừ tất cả những cảm xúc tiêu cực và phát triển những cảm xúc tích cực - vô hạn lượng - đặc biệt trong sự thực hành Phật Giáo...
(Xem: 22315)
Để thành tựu được lễ dâng y kathina, người thí chủ cần phải có sự hiểu về tấm y gọi là “Y Kathina” và nghi thức làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng.
(Xem: 12584)
Đối với nhà Phật cho là con người ai cũng có Phật tánh, mà có Phật tánh tức là có tánh tốt.
(Xem: 12736)
Có thể nói, sự hiểu biết đúng đắn thuyết nhân quả nghiệp báo của đạo Phật sẽ tạo cho mỗi người một ý thức trách nhiệm rất cao đối với cá nhân mình và xã hội.
(Xem: 12651)
Đã là người đệ tử thì chúng ta phải tin và hành theo lời dạy của Phật, đó mới đúng là người đệ tử chân chánh, biết tôn sư trọng đạo, hiếu nghĩa trọn vẹn.
(Xem: 16834)
Có một thời gian Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên phụ trách trông coi việc dựng thiền-thất tại vườn Lộc-Dã; một hôm trong lúc Tôn-giả đang đi kinh hành trên khoảng đất trống...
(Xem: 13782)
Bất cứ một hiện tượng nào được phát sinh ra cũng đều phải nhờ vào một sự kết hợp của nhiều nguyên nhân và nhiều điều kiện...
(Xem: 13063)
Cách tốt nhất để vượt thắng những điều không may, hay những thứ xui xẻo hãy tự mình làm nên những công đứcthiền quán về tánh không...
(Xem: 13528)
Nghiệp báo của sự tàn phá môi trường được phản ánh trong cuộc thảm sát đẫm máu bạo tàn dòng họ Thích Ca (Sakyā) bởi lòng hiềm thù mê muội của vua Tỳ Lưu Ly...
(Xem: 12623)
Với người xuất gia, phẩm vị được khẳng định ở giới hạnh chứ không phải ở tuổi tác. Có thể đầu xanh tuổi trẻ nhưng vẫn được tôn trọng cung kính...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant