Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 1. Dẫn Nhập

11 Tháng Mười Hai 201200:00(Xem: 6064)
Chương 1. Dẫn Nhập

NGHIÊN CỨU VỀ TRIẾT HỌC NHƯ LAI TẠNG
Nguyên tác: Pháp sư Ấn Thuận
Chuyển ngữ: Tỳ-kheo Thích Nhuận Thịnh

CHƯƠNG 1. DẪN NHẬP

1. Địa vị của Như lai tạng học trong Phật giáo

Như lai tạng (tathāgata-garbha), Như lai giới – Như lai tánh (tathāgata-dhātu), Phật tánhPhật giới (buddha-dhātu), v.v., đây là một loại danh từ, trên mặt ý nghĩa tuy có sai biệt ít nhiều, nhưng làm tính khả năng để thành Phật, trên phương diệt bổn tánh chẳng phải là hai của chúng sanh và Phật để nói, thì có ý nghĩa nhất trí với nhau. Tại Ấn-độ, sự hưng khởi của thuyết Như lai tạng khoảng vào thế kỷ thứ 3 A.D., từ giai đoạn sơ kỳ Đại thừa tiến vào hậu kỳ Đại thừa Phật giáo. Ở trong khoảng thế kỷ 4 – 5 A.D., nó hưng thịnh vô cùng; những kinh điển mà có liên quan (giải nghĩa rộng thêm) đến thuyết Như lai tạng, cũng nối tiếp lưu truyền ra. Thuyết Như lai tạng, lấy kinh hậu kỳ Đại thừa làm chủ, trong các Luận sư - Luận sư Đại thừa của Ấn-độ, gồm hai nhà Trung quán (Madhyamaka) và Du-già (Yoga), đều nói thuyết Như lai tạngbất liễu nghĩa, lấy ‘mật ý’ của Trung quánDuy thức để giải thích nó. Kỳ thật, hệ tư tưởng này có lập trường độc đáo, chủ yếu là chúng sanh và Phật có thể tánh chung; dựa vào đây làm tông bổn, giải thích rằng dựa vào đây mà có sanh tử, chúng sanh, dựa vào đây mà có giải thoát rốt ráo, Như lai. Như kinh Bất tăng bất giả(I) nói: “Này Xá-lợi-phất! Chính pháp thân này, trải qua sự bị hằng sa vô biên phiền não trói buộc, từ vô thỉ đến đời vị lai, tùy thuận thế gian, nổi trôi phiêu bạt, qua lai trong sanh tử, nên gọi là chúng sanh. Này Xá-lợi-phất! Chính pháp thân này, chán rời sự khổ não của sanh tửthế gian, quăng bỏ tất cả sự có ham muốn, thực hành mười ba-la-mật, nắm giữ 84000 pháp môn, tu hạnh bồ-đề, gọi là Bồ-tát. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Chính pháp thân này, lìa tất cả trói buộc của phiền nãothế gian, vượt qua tất cả khổ, lìa tất cả cái bẩn của phiền não, đắc được thanh tịnh, trụ trong pháp thanh tịnhbờ bên kia, đến nơi (thấy) sở nguyện của tất cả chúng sanh; ở trong tất cả cảnh giới, thông đạt hoàn toàn, lại không có cái nào vượt hơn nó; lìa tất cả chướng, ở trong tất cả pháp mà đắc được lực tự tại, nên gọi là ứng chánh biến tri của Như lai.” Pháp thân (dharma-kāya) được kinh Bất tăng bất giảm nói đó, cũng là tên gọi khác của Như lai tạng. Từ tông y(a) của lập luận này để nói, thì nó bất đồng với lập luận ‘bởi vì có nghĩa không, nên tất cả pháp được thành tựu’(b) của nhà Trung quán; cũng bất đồng với quan điểm dựa vào thức a-lại-da (ālaya) của hư vọng phân biệt làm ‘sở tri y’(c) của nhà Du-già. Thuyết Như lai tạnglập trường độc đáo, có đặc sắc về ‘chân ngã luận’ phong phú. Do vì thuyết Như lai tạng dùng kinh điển làm chủ, cho nên học phái mà xem trọng Luận, như các học giả Tây tạng, chỉ thừa nhận quan điểm của Trung quán [Trung quán kiến] và quan điểm của Duy thức [Duy thức kiến], mà không thừa nhận sự tồn tại của quan điểm Tạng tánh [Tạng tánh kiến]. Phật giáo Trung quốc là xem trọng kinh, cho nên có lời bình luận rằng ‘Kinh thì giàu có, Luận thì nghèo nàn’.(d) Pháp môn Như lai tạng, Phật tánh, truyền đến Trung quốc vốn trọng kinh, đã nhận được sự tán dương cao độ của Phật giáo Trung quốc. Như tông Hiền thủ lập nên năm giáo,(e) ba tông, ba tông là tông Pháp tướng, tông Phá tướng, tông Pháp tánh. Thuyết Như lai tạng là ‘chung giáo’ trong năm giáo, và đốn giáo, viên giáo, điều là tông Pháp tánh thuộc Hiển tánh,(f) chỉ là lý luậnphương pháp của Hiển tánh bất đồng ít nhiều mà thôi. Thiền tông là từ ‘Như lai (tạng) thiền’ mà ra, cho nên kinh Lăng nghiêm và luận Khởi tín xiển dương pháp môn này, tuy có truyền thuyết ‘nghi ngờ chúng là ngụy tạo’, nhưng lại nhận được sự tôn trọng của tông Hiền thủThiền tông. Ngài Tứ minh Pháp trí(g) của tông Thiên thai, luận định thuyết Như lai tạng duyên khởi là ‘biệt lý tùy duyên,’(h) ‘căn cứ vào lý, tùy duyên mà chưa được viên mãn tột cùng [viên cực]’.1 Nhưng ngài Cô sơn Trí viên,(i) sống đồng thời với ngài Tứ minh Pháp trí, thì trích dẫn luận Khởi tín, suy tôn nó là pháp môn viên mãn tột cùng. Từ cuối đời Tống về sau, Phật giáo Trung quốc có khuynh hướng dung hòa, thuyết Như lai tạng cũng trở thành một dòng của Đại thừa. Vào cuối đời Minh, ngài Trí húc(j) là tiếp cận với Thiên thai học, cho rằng Như lai tạng tùy duyên là ‘nhất thừa viên mãn cùng tột’.2 Thời cận đại, Đại sư Thái hư, vào những năm cuối đời, giảng Phật học Trung quốc, đầu tiên liệt kê ra một biểu đồ, dùng Phật tánh để nối kết chúng sanh và Phật, ngài nói như thế này: “Là tâm phápliên hệ giữa chúng sanh và Phật. … Do vậy, chúng ta có thể nhận ra sự bất đồng của Phật, tâm, chúng sanh, đồng thời có thể nhận ra sự liên hệ của chúng sanh, tâm, Phật.”3 Biểu đồ về sự dùng con mắt trạch pháp đối với Phật tạng, Biểu đồ về sự mê và ngộ của Như lai tạng tâm(k)Đại sư làm vào thời trẻ, đều là dùng Như lai tạng, Phật tánh làm tông bổn để giải thích hoặc dung hợp và nối kết tất cả.4 Thuyết Như lai tạng, có thể nói là dòng chính của Phật giáo Trung quốc! Dựa vào đây để quan sát, như tông Hiền thủ nói ‘tánh khởi’, Thiền tông nói ‘tánh sanh’, tông Thiên thai nói ‘tánh cụ’, trên mặt giải thích đương nhiên bất đồng, nhưng đều dùng ‘tánh’ – ‘Như lai (giới) tánh, pháp (giới) tánh’ làm tông bổn. Pháp môn này, trải qua sự dung hội và phát huy của các học giả Phật giáo Trung quốc, đã có khoảng cách tương đối với nguyên nghĩa của nó, nhưng chắc chắn là dòng chính của Phật giáo Trung quốc, ngoài Trung quán, Duy thức ra, nó cũng thể hiện lập trườngkiến giải độc đáo.

2. Những Kinh Luậnliên quan đến thuyết Như lai tạng

Các kinh điển mà có liên quan đến Như lai tạng (tathāgata-garbha) học, trên mặt lịch sử Phật giáo, thuộc vào hậu kỳ của Phật giáo Đại thừa, cho rằng ‘tất cả pháp là không’ là pháp chưa liễu nghĩa, lấy chân thường(a) – ngã chân thường, tâm chân thường làm pháp môn chủ đạo. Tuyên bố các Kinh - Luận thuộc về Như lai tạng, v.v., trên mặt lịch sử dịch KinhTrung quốc, bắt đều từ cuối thế kỷ 3 A.D., đến thế kỷ 7 A.D. thì dừng, số Kinh được dịch ra không ít. Trên mặt tư tưởng, trước sau cũng có bất đồng. Giáo điển thuộc dòng chính, có: 1. Kinh Như lai hưng hiển, 3 quyển, do Trúc Pháp hộ (Dharmarakṣa) dịch vào đời nhà Tấn, niên hiệu Thái Khang năm thứ 8, là bản dịch đầu tiên của phẩm Bảo vương Như lai tánh khởi của kinh Hoa nghiêm được dịch vào đời nhà Tấn, và phẩm Như lai xuất hiện của kinh Hoa nghiêm được dịch vào đời nhà Đường. Trong kinh nói rằng phá vi trần ra thành kinh điển nhiều như đại thiên, và “loại chúng sanh này, ngu si đến như thế! Không thể phân biệt được rắng bậc Như lai Thánh huệ Thế tôn nhập khắp trong ấy,”1 tức là [chủ trương] ‘tất cả chúng sanh đều có trí huệ và đức tưởng của Như lai’ của thuyết Như lai tạng. 2. Kinh Đại ai, 8 quyển, do Trúc Pháp hộ dịch vào đời Tấn, niên hiệu Nguyên Khang nguyên niên (291 A.D.), cùng với phẩm Anh lạc của kinh Đại Phương đẳng chúng tập, kinh Đà-ra-ni tự tại vương Bồ-tát do Đàm-vô-sấm (Dharmarakṣa) dịch vào đời Bắc Lương, là cùng một nguyên bản mà dịch khác nhau. Luận Bảo tánh, là bản chuyên luận về pháp môn Như lai tạng, chính là dựa vào bản kinh này mà làm nên luận ấy. Ở trong kinh Đại ai, có dụ viên ngọc quí không dơ bẩn, và đầu tiên nói ‘vô thường, khổ, không chẳng phải là thân (ngã),’ ‘sau đó cho đến đạt được không, vô tướng, (vô) nguyện,’ ‘thứ đến được thành tựu bất thoái chuyển (Pháp luân)’.2 Đây là ba thời giáo: đầu tiên nói về Thanh văn giáo, thứ đến nói về Không tương ưng giáo, sau cùng nói về bất thối chuyển bồ-đề Pháp luân. Ba thời giáo của kinh Đại ai, cùng với thời thứ 3 trong ba thời giáo thuyết của kinh Giải thâm mật là bất đồng. 3. Kinh Đại Phương đẳng Như lai tạng, 1 quyển, “thời Tấn Huệ, Hoài (290-311 A.D.), sa-môn Pháp cự dịch ra.”3 Bộ kinh này đã bị thất lạc, hiện nay còn bản dịch của Phật-đà-bạt-đà-la (Buddhabhadra) dịch vào đời Tấn, niên hiệu Nguyên Hi năm thứ 2 (406 A.D.), cũng gọi là kinh Đại Phương đẳng Như lai tạng. Trong kinh dùng 9 thí dụ để trình bày về Như lai tạng, là một bộ phổ biến của thuyết Như lai tạng. 4. Kinh Đại Bát-nê-hoàn, 6 quyển, do Pháp hiển dịch vào đời Tấn, niên hiệu Nghĩa Hi năm thứ 13 (417-418 A.D.). Bộ kinh này, theo truyền thuyết, cùng với bản kinh Nê-hoàn, gồm 20 quyển, do Trí mãnh dịch tại Lương châu vào đời Tống, là cùng nguyên bản mà dịch khác nhau. Lục quyển Nê-hoàn kýNhị thập quyển Nê-hoàn ký, nói giống nhau rằng bản kinh này là tìm được từ xứ Bà-la-môn ở thành Hoa-thị (Pāṭaliputra), thuộc miền trung của Thiên trúc.4 Mười quyển đầu của kinh Đại Bát-niết-bàn do Đàm-vô-sấm dịch, từ phẩm Thọ mạng thứ nhất đến phẩm Câu hỏi của tất cả đại chúng thứ 5, cũng là bản dịch khác của bộ kinh này. Theo Đại Bát-niết-bàn kinh, 10 quyển đầu do Đàm-vô-sấm dịch, là bản kinh do Trí mãnh lấy được từ Ấn độ, mà lưu giữ tại Cao xương chăng?5 5. Kinh Đại Bát-niết-bàn, 40 quyển, Đàm-vô-sấm dịch ra, bắt đầu từ tháng 10, đời Bắc Lương, niên hiệu Huyền Thỉ năm thứ 10 (421 A.D.), tại Cô Tang. Trước hết dịch 10 quyển đầu, cùng với kinh Đại Bát-nê-hoàn do Pháp hiển dịch, là cùng nguyên bản mà dịch khác nhau. Do vì nguyên bản của kinh này không đầy đủ hoàn toàn, Đàm-vô-sấm trở lại Tây phương [Thiên trúc] để tìm kiếm, lại tìm được bản kinh này ở tại nước Vu-điền, rồi ngài trở lại Cô Tang dịch ra.6 Truyền thuyết tuy có thêm bớt một ít, nhưng 10 quyển đầu và bộ phận được tiếp tục dịch thêm vào đời sau này, thời đại thành lập có trước sau nên giải thích cũng có điểm bất đồng, đây là điều không có thể nghi ngờ được! 6. Kinh Đại vân, hoặc gọi là kinh Vô tưởng, do Đàm-vô-sấm dịch. Hiện nay còn kinh Đại Phương đẳng Vô tưởng, 6 quyển, chia làm 37 kiền-độ. Riêng lẻ có Đại vân vô tưởng kinh quyển thứ chín, 1 quyển. Trong kinh Đại vân, đã nói đến ‘thường, lạc, ngã, tịnh’ và Phật tánh. 7. Kinh Đại Pháp cổ, 2 quyển, do Cầu-na-bạt-đà-la (Guṇabhadra) dịch, trong đời Tống, niên hiệu Nguyên Gia (trước sau năm 440 A.D.). 8. Kinh Ương-quật-ma-la, 4 quyển, Cầu-na-bạt-đà-la dịch và đời Tống, niên hiệu Nguyên Gia Trung. Tạng Đại chánh biên tập vào Bộ A-hàm thì rất không thỏa đáng. 9. Kinh Thắng man sư tử hống Nhất thừa đại phương tiện phương quảng, 2 quyển, do Cầu-na-bạt-đà-la dịch lần đầu tiên, vào đời Tống, niên hiệu Nguyên Gia năm thứ 13 (436 A.D.). Vào đời Đường, giữa niên hiệu Thần Long năm thứ 2 đến niên hiệu Tiên Thiên năm thứ 2 (706-713 A.D.), Bồ-đề-lưu-chí (Bodhiruci) dịch lại, biên tập làm Thắng man phu nhân hội thứ 48 của kinh Đại Bảo tích. 10. Lăng-già bạt-đà-la bảo kinh, 4 quyển, do Cầu-na-bạt-đà-la dịch lần đầu tiên, vào đời Tống, niên hiệu Nguyên Gia năm thứ 13 (436 A.D.). Bản dịch khác thì có 2 bản: 1. Do Bồ-đề-lưu-chí dịch vào đời Nguyên Ngụy, niên hiệu Diên Xương năm thứ 2 (513 A.D.), gọi là kinh Nhập Lăng-già, 10 quyển. 2. Do Thật-xoa-nan-đà (Śikṣānanda) dịch vào đời Đường, niên hiệu Trường An năm thứ 4 (704 A.D.), gọi là kinh Đại thừa Nhập Lăng-già, 7 quyển. Bản dịch đời Ngụy và Đường, so với bản dịch đời Tống, thì đã có tăng thêm phần ‘thỉnh Phật’, ‘vấn đáp’ trong phần Tự khởi, và phần kệ tụng ở sau cùng. 11. Kinh Bảo tích tam-muội Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát vấn Pháp thân, mất tên người dịch, 1 quyển, xem Tân tập tục tuyển thất dịch tạp kinh lục của Xuất Tam tạng ký tập,7 là kinh mà ngài Đạo An không thấy được. Từ Lịch đại Tam bảo ký, được viết vào đời Tùy, về sau, chép là do An Thế Cao dịch vào đời Hậu Hán, là điều không đủ để tin! Dựa vào từ ngữ dùng để dịch, nó phải là được dịch từ đời Tây Tấn trở về trước. Vào đời Tùy, niên hiệu Khai Hoàng năm thứ 15 (595 A.D.), Xà-na-quật-đa (Jñānagupta) dịch lại, gọi là kinh Nhập pháp giới thể tánh, 1 quyển. 12. Kinh Như lai trang nghiêm trí huệ quang minh nhập nhất thiết Phật cảnh giới, 2 quyển, do Đàm-ma-lưu-chi dịch lần đầu tiên, vào đời Nguyên Ngụy, niên hiệu Cảnh Minh năm thứ 2 (501 A.D.). Vào đời Lương, khoảng giữa niên hiệu Thiên Giám năm thứ 5 và niên hiệu Phổ Thông nguyên niên (506-520 A.D.), Tăng-già-bà-la (Saṃghavarman), v.v, dịch lại, gọi là kinh Độ nhất thiết chư Phật cảnh giới trang nghiêm, 1 quyển. Vào đời Triệu Tống, vào sau niên hiệu Đại Trung Tường Phù năm thứ 3 (1010 A.D.), Pháp hộ (Dharmapāla), v.v., dịch là kinh Đại thừa Nhập chư Phật cảnh giới quang minh trang nghiêm, 5 quyển. 13. Kinh Bất tăng bất giảm, 1 quyển, do Bồ-đề-lưu-chí dịch, vào đời Nguyên Ngụy, niên hiệu Hiếu Xương nguyên niên (525 A.D.). 14. Kinh Vô thương y, 2 quyển, do Chân đế (Paramārtha) dịch, vào đời Trần, niên hiệu Vĩnh Định năm thứ 2 (558 A.D.), có thuyết nói nó được dịch vào đời nhà Lương. Kinh Vô thượng y chia làm 6 phẩm, phẩm Hiệu lượng công đức thứ nhất, cùng với kinh Vị tằng hữu mà đã mất tên người dịch, và kinh Thậm hi hữu do Đường Huyền trang dịch, là cùng bản mà dịch khác nhau. 15. Kinh Thắng thiên vương bát-nhã ba-la-mật, 7 quyển, do Nguyệt-bà-thủ-na (Upaśūnya) dịch, vào đời Trần, niên hiệu Thiên Gia năm thứ 6 (565 A.D.). Vào đời Đường, khoảng giữa niên hiệu Hiển Khánh năm thứ 5 và niên hiệu Long Sóc năm thứ 2 (660-663 A.D.), kinh Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa (phần thứ 6), 8 quyển (tương đương quyển 566-573 của bộ kinh lớn này) do Đường Huyền trang dịch, chính là dịch lại của kinh Thắng thiên vương bát-nhã. Bản kinh này là do từ kinh Bảo vân, kinh Vô thượng y, v.v., biên tập thành.8 16. Kinh Đại thừa Mật nghiêm, 3 quyển, do Địa-bà-ha-la (Divākara) dịch, vào đời Đường, khoảng giữa Vĩnh Long, Thùy Củng nguyên niên (680-685 A.D.). Vào đời Đường, niên hiệu Vĩnh Thái nguyên niên (765 A.D.), Bất không (Amoghavajra) dịch lại, cũng gọi là kinh Đại thừa Mật nghiêm, 3 quyển. Các Luận điển thuộc về thuyết Như lai tạng, có: 1. Luận Cứu cánh Nhất thừa bảo tánh, 4 quyển, đời Nguyên Ngụy, niên hiệu Chánh Thỉ năm thứ 5 (508 A.D.) được truyền đến Trung hoa, do Lặc-na-ma-đề (Ratnamati) dịch. Bộ luận này, có phần bổn tụng và giải thíchkệ tụngvăn xuôi, không có nên rõ tên của người làm ra luận này. Ngoài bản Hán dịch, hiện nay còn có bản Phạn và bản dịch sang Tạng ngữ. Theo truyền thuyết của các bậc cổ nhânTrung quốc, thì luận Bảo tánh là do Bồ-tát Kiên huệ (Sāramati) làm ra. Nhưng theo truyền thuyết của Tây tạng thì: phần kệ tụng là do Do-lặc (Maitreya) tạo, phần giải thích của luận là do Vô trước (Asaṅga) tạo. Đối với tác giả của bản luận này, thời cận đạiý kiến bất đồng. Bà-tẩu-bàn-đậu Pháp sư truyện của Chân đế, nói: Thế thân (Vasubandhu) làm ra luận Tam bảo tánh.9 Tam bảo tánh chính là Bảo tánh, cho nên tác phẩm Nghiên cứu về bản Phạn-Hán đối chiếu của luận Cứu cánh Nhất thừa Bảo tánh, suy đoánKiên huệ làm phẩn bổn tụng, Thế thân làm phần giải thích của luận.10 2. Luận Phật tánh, 4 quyển, Chân đế dịch ra vào đời nhà Trần. Phần đầu của luận này là phá trừ ngoại đạo, Tiểu thừa, Đại thừa chấp về không, lập nên 3 tánh, 3 vô tánh; bộ phận sau, cùng với phần giải thích của luận Cứu cánh Nhất thừa Bảo tánh, đại để phù hợp với nhau. Tương truyền là do Thế thân tạo, e rằng chưa hẳn là như vậy. 3. Luận Đại thừa pháp giới vô sai biệt, 2 quyển, do Bồ-tát Kiên ý tạo. Hiện nay còn có 2 bản: 1. Bản gồm có 24 bài tụng bằng thể 5 chữ [ngũ ngôn], chia làm 12 nghĩa, giải thích riêng từng bài kệ, đây là bản luận mà ngài Hiền Thủ dựa vào để làm sớ giải. 2. Bản nêu ra tổng thảy 24 bài tụng bằng thể 7 chữ [thất ngôn], sau đó chia làm 12 nghĩa để giải thích. Về luận nghĩa thì tương đồng, đều nói là do Đề-vân-bát-nhã dịch vào đời Đường. Nhưng theo ghi chép của Khai nguyên thích giáo lục, thì chỉ cho tụng bản theo thể 5 chữ. Luận Cứu cánh Nhất thừa Bảo tánh, luận Phật tánh, luận Đại thừa pháp giới vô sai biệt, cùng với kinh Vô thượng y, ý nghĩa đều vô cùng gần nhau. Đây là vào cuối thế kỷ thứ 4 A.D., các Luận sư đem các kinh điển của Như lai tạng đang lưu hành lúc bấy giờ, chia ra làm 10 môn (hoặc 12 nghĩa) để làm một bộ luận tổng quát nhằm liên kết và tóm thâu lại. Đây vẫn là thuyết Như lai tạng (không có trích dẫn kinh Lăng-già), chẳng phải là thuyết Như lai tạng duyên khởi. Đại khái cùng đồng thời với luận Bảo tánh, đã có lưu truyền ra kinh Lăng-già, lập nên Như lai tạng tàng thức (tathāgatagarbha-ālayavijñāna), Như lai tạngTàng thức kết hợp thành một dòng, do vậy lại có luận điển giống như là luận Đại thừa khởi tín. Luận Khởi tín và kinh Lăng-già, có truyền thuyết ‘nghi là ngụy tạo’, cho nên không liệt kê thêm vào trong luận.

3. Danh xưng và ý nghĩa của Như lai tạng

Thuyết Như lai tạng (tathāgata-garbha) là dòng chính của Đại thừa hậu kỳ (Kinh), là do sự khai triển của kinh Đại thừa sơ kỳ mà ra. ‘Phật pháp’ mà khai triển thành Phật pháp Đại thừa, nguyên nhân căn bản là ‘sau khi Phật nhập niết-bàn, chúng đệ tử của Phật có hoài niệm vĩnh hằng đối với Phật’. Công đức của Phật – trang nghiêm bằng trí tuệ sáng suốt của Như laitrang nghiêm Tịnh độ, sự thực hành lợi cho chính mình và sự thực hành lợi cho kẻ khác của Bồ-tát, đều là ở tại sự nguyện cầu này mà khai triển ra. Công đức trang nghiêm của tất cả chư Phật trong mười phươngđức Phật đà trong lý tưởng, từ sự thực hiện trong thực tiễn của Bồ-tát hạnh mà ra, chính là thành Phật. Trong Đại thừa sơ kỳ, nói rộng rãi đến chư Phật trong mười phươngTịnh độ trong mười phương, tất cả pháp xưa nay vôn chẳng phải sanh, vô lượng số đại kiếp tu Bồ-tát hạnh, hướng đến phổ biến, rộng lớn, dài lâu, sâu sắc mà phát triển kéo dài vô hạn. Đức Phật-đà như vậy, là sâu vô cùng, rộng vô cực, nên thành Phật là không dễ dàng chút nào vậy! Điều này hẳn phải là mối quan tâmưu tư bức thiết của hàng đệ tử của Phật. ‘Phật pháp’, nguyên gốc là trực tiếp từ thân và tâm của chúng sanh, dẫn dắt tu hành để chứng nhập vào quả vị Phật. ‘Từ rộng rồi trở lại tóm gọn’,(a) thuyết Như lai tạng của Đại thừa hậu kỳ, cũng là dùng sự trang nghiêm bằng trí tuệ sáng suốt của Như lai mà là sâu vô cùng, rộng vô cực ấy, trực tiếp từ trong thân và tâm của chúng sanhđiểm xuất phát mà đã được Đại thừa sơ kỳ xiển minh. Tất cả chúng sanh đều có Như lai tạng (hoặc Phật tánh), không chỉ tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, cũng đã cống hiến pháp môn nhập vào mau chóng, dễ thành tựu; các pháp môn như ‘chính tâm này là Phật’, ‘chính thân này thành Phật’, v.v., do vậy mà được phát triển lên. Luận Bảo tánh nói: “Căn cứ vào Như lai tạng mà có 4 nghĩa, căn cứ vào 4 nghĩa mà có 4 tên gọi,” 4 tên gọi là: Pháp thân (dharmakāya), Như lai (tathāgata), Thánh đế (ārya-satya), niết-bàn (nirvāṇa).1 Kinh Thắng man phu nhân nói: “Như lai tạng ấy, là tạng của pháp giới, là tạng của Pháp thân, là tạng của xuất thế gian, tạng của tánh thanh tịnh.”2 Từ lập trường của Như lai tạng, liên kết và tóm thâu các tên gọi và ý nghĩa bất đồng trong các kinh, có thể lý giải được nguồn mạch của hệ tư tưởng này. Các tên gọi bất đồng này, chủ yếu là do từ Phật mà có. Như Phật (Buddha), Như lai (Tathāgata), bậc Chiến thắng (Jina), Pháp thân (Dharma-kāya) đều là các tên gọi khác của Phật. Trí huệ của Phật là bồ-đề vô thượng (anuttara-bodhi), gọi tắt là bồ-đề; lìa tất cả tạp nhiễm nên đắc được giải thoát, là niết-bàn (nirvāṇa). Bồ-đề và niết-bàn, là nói theo quả đức của Phật. Phật là giác ngộ to lớn mà thành tựu viên mãn, cái mà được Phật thể ngộ thì gọi là pháp (dharma), Thánh đế (ārya-satya). Trong kinh của Đại thừa sơ kỳ, phần nhiều là sử dụng pháp tánh (dharmatā), (chân) như (tathā), pháp giới (dharma-dhātu), thật tế (bhūtakoṭi), v.v. Đây đều là các danh từ vốn có sẵn, đến khi thuyết Như lai tạng được hưng khởi, nhằm biểu thị rằng chúng sanh vốn sẵn có cái ấy, thì ý nghĩa của thai tạng, giới tạng, nhiếp tạng được quan trọng lên, thành lập nên danh từ mới. Như garbha là tử cung [tạng] của bào thai [thai tạng]: Như lai tạng (tathāgata-garbha), Phật tạng (Buddha – garbha), Chánh giác tạng (saṃbodhi-garbha), Thắng giả tạng (jina-garbha), pháp giới tạng (dharma-dhātu-garbha), xuất thế gian tạng (lokottaragarbha), tánh thanh tịnh tạng (prakṛti -pariśuddha-garbha), v.v., đều là tử cung của bào thai. Trong 9 thí dụ về Như lai tạng, có cái dụ người phụ nữ nghèo mang thai vị Luân vương, là ý nghĩa căn bản của thai tạng: có liên quan đến thuyết chủng tánh (gotra). Như dhātu là kho tàng [tạng] của kho tàng giới [giới tạng]: Phật giới (buddha-dhātu), Như lai giới (tathāgata-dhātu), pháp giới (dharma-dhātu), niết-bàn giới (nirvāṇa-dhātu), chúng sanh giới (sattva-dhātu), đều là dựa theo giới tạng mà có tên gọi. Dhātu, thông thường dịch là giới, như 6 giới, 18 giới, v.v., đều là danh từ rất thường thấy. Luận A-tỳ-đạt-ma Câu-xá(I) nói: “Nghĩa của chủng tộc [của pháp] là nghĩa của giới, như trong một quả núi có các tộc của đồng, thiết, vàng, bạc, v.v., được nói là nhiều giới.”(b) Giới có nhiều loại ý nghĩa, như các tộc họ của đồng, thiết, vàng, bạc, v.v., ở trong núi, là một nghĩa trong số ấy, đó chính là kho khoáng sản ở dưới đất. Trong 9 thí dụ của Như lai tạng, có cái dụ đất, có cái dụ kho trân bảo, chính là thí dụ của giới tạng. Như cái dụ kho vàng dưới đất của Nhiếp Đại thừa luận bổn, cũng là vốn có vàng nhưng không thấy, trải qua sự tôi luyện nên mới hiện rõ ra.3 Giới, hoặc dịch là tánh, như pháp giới hoặc dịch là pháp tánh, Như lai giới hoặc dịch là Như lai tánh. Thai tạng và giới tạng, là bất đồng, nhưng trên mặt ý nghĩa mà đã có sẵn nhưng chưa có hiện rõ, thì thai tạng và giới tạng là tương thông, các dịch giả của cổ đại thường dịch tương thông lẫn nhau. Như ‘từ Tăng rồi thứ đến có tánh vô ngại,’ ‘đều có thật tánh Phật’ của luận Bảo tánh, chữ ‘tánh’ trong tiếng Phạn, đều là thai tạng (garbha). Ngược lại, Như lai giới cũng có được dịch là Như lai tạng. Ở đây có thể thấy thai tạng và giới tạng, ở trong kinh luận của thuyết Như lai tạng, ý nghĩa tương thông với nhau. Lại như từ Phật tánh, là rất quen thuộc trong Phật giáo Trung quốc. Từ bản Phạn ngữ của luận Bảo tánh để xem xét, thì bản Hán dịch là Phật tánh, hoặc là Phật tạng (Buddhagarbha), hoặc là Phật giới (Buddhadhātu), cho nên Phật tánh cũng không ở ngoài thai tạng và giới tạng. Kośa, là cái kho chứa, cũng chính là câu-xá. Ở trong luận Bảo tánh đều dùng làm ý nghĩa của cái kho chứa phiền nãoche lấp sự chân thật. Nhưng trong Pháp vân địa của phẩm Thập địa trong kinh Hoa nghiêm, nói đến ‘Như lai tạng giải thoát,’ ‘pháp tánh tạng giải thoát,’4 nguyên ngữ của Như lai tạngNhư lai câu-xá. Lại nữa, Đại nhật kinh sớ giải thích pháp giới tạng có ‘âm tiếng Phạn là câu-xá.’5 Câu-xá – cái kho chứa, dường như cũng tương thông với thai tạng, giới tạng. Chẳng qua ở trong tư tưởng Như lai tạng, thuyết thai tạng, theo thông tục, là quan trọng hơn vậy! Như lai tạngthuật ngữ của Đại thừa hậu kỳ, mà Như lai và tạng, lại là những từ vốn có trong đời sống thế tụcẤn độ, từ trước khi thuyết Như lai tạng được thành lập, Như lai và tạng lại là ý nghĩa gì? Như lai, dịch âm là đa-đà-a-dà-đà (Tathāgata), ở trong Phật giáo, là đức hiệu của Phật. Trong kinh Phật, đức hiệu của đức Thế tôn, nói rộng ra thì có 10 hiệu: Như lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hành túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sỹ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật. Có 3 hiệu chính: Như lai, Ứng cúng, Chánh biến tri. Nói gọn thì gọi là Như lai. Ý nghĩa của Như lai, trong kinh luận giải thích rất nhiều, như luận Đại trí độ(II) nói: “Sao gọi là Đa-đà-a-dà-đà? (Bậc mà) hiểu đúng như pháp tướng, nói đúng như pháp tướng; đến bằng con đường an ổn như chư Phật, Phật đến như thế, lại chẳng còn đi vào hậu hữu [tái sanh]: vì vậy gọi là Đa-đà-a-dà-đà.” Đa-đà-a-dà-đà, thông thường dịch là Như lai, kỳ thật có thể giải thích theo 3 cách. ‘Hiểu đúng như pháp tướng’ là ‘hiểu đúng như’, theo sự thông đạt của trí tuệ về chân như mà nói, phù hợp đúng như thật tướng của tất cả pháp mà thông đạt. ‘Nói đúng như pháp tướng’ là ‘nói đúng như’, theo sự thuyết pháp đúng như sự hiểu biết của Ngài mà thuyết pháp, cho nên nói: “Như lai là người nói lời đúng đắn, người nói lời thật, người nói lời ‘như’, người không nói lời dối dang, người không nói lời khác thường.”6 ‘Đến bằng con đường an ổn như chư Phật’ là ‘đến đúng như’, theo sự giải thoát bình đẳng của tất cả chư Phật mà nói. Phật trong thời quá khứ là như thế, từ con đường an ổn đến thành Phật, Phật trong hiện tại cũng là đến thành Phật như thế. ‘Như’ là thật tướngbình đẳng không có hai, Phật chính là người thể hiện viên mãn đúng như sự như [như như], cùng bình đẳng với tất cả Phật, cho nên gọi là Như lai. Tuy có 3 ý nghĩa như này, nhưng thông thường đều dịch là Như lai, là chú trọng nơi sự thành tựu của quả đức (mà đến). Như lai là hiệu trước nhất trong 10 hiệu, Phật là hiệu sau cùng, Như lai và Phật, thông thường cũng có thể dùng thay đổi cho nhau. Như Phật Thích-ca (Śākya) tức là Thích ca Như lai, Phật Nhiên đăng (Dīpaṃkara) tức là Nhiên đăng Như lai; Như lai giới tức là Phật giới, Như lai tạng tức là Phật tạng. Như lai và Phật là phổ biến nhất trong các đức hiệu của đức Thế tôn. Dùng ‘Như lai’ làm đức hiệu của đức Thế tôn, hoàn toàn chẳng phải là thuật ngữ đặc hữu của Phật giáo, mà là ngôn từ của thế tục, trước khi Phật giáo thành lập, nó là danh từ đã vốn có sẵn trong văn hóa Ấn độ. Những người thế tục thông thường và hoạc giả của tôn giáo, đối với Như lai thì giải thích như thế nào vậy? Như luận Đại trí độ(III) nói: “Hoặc dùng tên Phật để gọi cho Như lai, hoặc dùng danh từ của chúng sanh để gọi cho Như lai. Đời trước đến như thế nào, thì đời sau cũng đi như thế ấy, cũng gọi đó là Như lai, cũng gọi là Như khứ, như trong 14 câu hỏi bị gạc bỏ. … Phật mà được gọi là Như lai ấy,… từ trong như mà đến, nên gọi là Như lai.” Như lai, trong Phật giáo, là một tên riêng của Phật, giải thích là ‘từ trong như mà đến’, chính là ngộ nhập chân như rồi đến thành Phật (nương vào con đường như thật mà đến). Đối với người thông thường, thì như lai là tên riêng của chúng sanh, cho nên nói: “Cái ngã có nhiều tên gọi, hoặc gọi là chúng sanh, người, trời, như lai, v.v.”7 Nói cách khác, như lai chính là tên riêng của ‘ngã’. Giới tôn giáoẤn độ cùng thời với đức Thích tôn, đối với sự từ lúc sanh tiền cho đến sau khi chết, từ đời trước đến đời sau, đều cho là có một chủ thể của sanh mạng; một chủ thể của sanh mạng này, thông thường gọi nó là ngã (ātman). ‘Ngã’ từ đời trước, lại đi đến đời sau, đến rồi đi đến rồi đi ở trong sanh tử , tự thể của sanh mạng lại vẫn như thế như thế, không có biến đổi. Như như không thay đổi, nhưng lại tùy theo duyên mà đến hay đi, cho nên cũng gọi ‘ngã’ là ‘như lai’ [đến như thế], cũng có thể nói là ‘như khứ’ [đi như thế]. ‘Mười bốn câu hỏi bị gạc bỏ, vào thời đại của đức Thích tôn, là 14 vấn đề mà giới tôn giáo thông thường thích thú luận cứu. Các nạn đề này, đức Thích tôn đồng loạt gạc bỏ mà không đáp, dùng sự không trả lời lại để trả lời cho bọn họ. Trong 14 câu hỏi bị gạc bỏ, thì có ‘như’ đi mất, ‘như’ không đi mất, ‘như’ cũng đi mất cũng không đi mất, ‘như’ chẳng phải đi mất chẳng phải không đi mất – 4 câu hỏi. Mười bốn câu hỏi bị gạc bỏ này tức là 14 câu hỏi vô ký [không xác định], ở trong Tạp A-hàm, là nhiều lần thấy đến. Luận Đại trí độ nói như thế này:8 1. “Mười bốn câu hỏi là những gì?...; sau khi chết, có ‘thần’ đi vào đời sau, không có ‘thần’ đi vào đời sau, cũng có ‘thần’ đi cũng không có ‘thần’ đi (vào đời sau), sau khi chết cũng chẳng phải có ‘thần’ đi cũng chẳng phải không có ‘thần’ đi vào đời sau.” 2. “Sự tồn tại [hữu], sau khi chết, ‘như’ đi mất; sự tồn tại [hữu], sau khi chết, ‘như’ không đi mất; sự tồn tại [hữu], sau khi chết, ‘như’ đi mất ‘như’ không đi mất; sự tồn tại [hữu], sau khi chết, ‘như’ cũng không đi mất ‘như’ cũng không phải không đi mất.” 3. Như Phật hỏi Phạm-chí Tiên-ni: “Ông thấy là sắc và ‘như’ đi mất chăng? Đáp rằng: Thưa, không phải như vậy. Thọ, tưởng, hành, thức và ‘như’ đi mất chăng? Đáp rằng: Thưa, không phải như vậy. Ở trong sắc, ‘như’ đi mất chăng? Đáp rằng: Thưa, không phải như vậy. Ở trong thọ, tưởng, hành, thức mà ‘như’ đi mất chăng? Đáp rằng: Thưa, không phải như vậy. Lìa khỏi sắc mà ‘như’ đi mất chăng? Đáp rằng: Thưa, không phải như vậy. Lìa khỏi thọ, tưởng, hành, thức mà ‘như’ đi mất chăng? Đáp rằng: Thưa, không phải như vậy. Ông lai thấy rằng không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức, mà cái ‘như’ ấy đi mất chăng? Đáp rằng: Thưa, không phải như vậy. … Phạm-chí vốn cho tổng tướng là ngã, nay Phật hỏi từng điều một, bởi vậy nên trả lời câu hỏi của Phật là chẳng phải như vậy.” Đối chiếu hai đoạn đầu, thì có hay không có ‘thần đi mất’, chính là có hay không có ‘như đi mất’. ‘Thần’ là cách dịch cũ của ‘ngã’. Đoạn vấn đáp của Phật và Phạm-chí Tiên-ni (Śreṇik) là rút ra từ kinh A-hàm; kinh Bát-nhã dẫn lời vấn đáp của Phật và Phạm-chí Tiên-ni để giải thích cho nghĩa sâu sắc của Đại thừa. Kinh trên hỏi sự đi hay không đi của sắc và ngã, và thọ, tưởng, hành, thức và ngã, mà Long thọ (Nāgārjuna) giải thích là: ‘Phạm-chí vốn cho tổng tướng là ngã, nay Phật hỏi từng điều một,’ có thể thấy rằng ‘như’ của câu được hỏi chính là ngã; ‘như đi mất’ (căn cứ từ đời trước đến đời này, có thể gọi là ‘như lai’) chính là sự đến và đi của ‘thần ngã’. Hai loại ý nghĩa mà một từ ‘như lai’ này có, chính là sự khác nhau của Phật phápthần ngã của thế tục. Thân và tâm hòa hợp nên chúng sanh có [tồn tại], là hiện thực của thế gian. Ấn độ vào thời đại của đức Thích tôn, đối với sự kéo dài sanh mạng của chúng sanh, từ đời trước đến đời này, từ đời này đi vào đời sau, đã trải quatín ngưỡng cộng đồng của cực đại đa số người. Sự kéo dài trước và sau của chúng sanh, sanh đến chết đi, thảy đều biết có cái gì đó đến rồi đi đến rồi đi, cũng đã kêu là ‘như lai’ hoặc ‘như khứ’. Khi đã đến với các học giả của tôn giáo, thì phải nhận thức cái tự thể của sanh mạng mà sanh đến chết đi ấy sâu thêm một tầng, cũng chính là, rốt cục cái gì là tự thể của sanh mạng, giới tôn giáo của Ấn độ đối với cái ‘ngã’ mà sanh đến chết đi ấy, suy luận ra nhiều loại kiến giải bất đồng. Nhưng có học giả thế tục, tìm không được thật thể của tự ngã là cái gì, nhân đó mà hoài nghi về sự sau khi chết đi vào đời sau, nên đã phủ định sự kéo dài của sanh tử. Do vậy, bốn vấn đề là ‘như đi vào đời sau’, ‘như không đi vào đời sau’, v.v., thường xuyên được nêu ra để luận cứu. Phật pháp mà do đức Thích tôn khai thị, là ‘vô ngã’ luận, không có thật thể của tự ngã, mà ở trên nguyên lý của duyên khởi (pratītya-samutpāda), thành lập nên sự kéo dài của sanh tử, điều này cùng với Thần giáo là bất đồng căn bản. Ở trong sự giác ngộ chân chánh của đức Thích tôn, không có cái ‘ngã’, ‘như’ mà được Thần giáo nói, không có cái nào như như không thay đổi, mà là do duyên khởi nên có đến và đi, cho nên đức Thích tôn đối với vấn đề của bọn họ nêu ra, nhất quyết là không bình luận thêm. Nhưng trong ngôn ngữtùy thuận thế tục, cũng có thể nói là ngã đi, cũng có thể là Như lai. Bởi vì sự kéo dài sanh tử của chúng sanh là dự thật của thế tục. Trong tự thân của Phật giáo, cũng có ‘Như lai’, cũng là người, có nhân cách giống trời, nhưng cho nó một giải thích mới. Như lai là ‘từ trong như mà đến’, ‘từ như thật mà đến’ là bậc thể hiện viên mãn về chân như, là bậc thành tựu về đạo như thật, cũng chính là bậc Đại Thánhviên mãn rốt ráo. Như lai theo thế tục thông thường, Như lai theo Phật giáo nói, là bất đồng căn bản. Nhưng trong quá trình Phật giáo phổ cập hóa đến quần chúng, thì cùng một từ Như lai mà có ý nghĩa bất đồng, khả năng có thể tự mình không biết được sự lẫn lộn chẳng rõ ràng ấy, nên không khỏi có khuynh hướng thế tụcthần giáo hóa. Tôi biết được rằng, các học giảnghiên cứu về nguồn gốc của tư tưởng Như lai tạng, thông thường đều chú trọng vào ‘tạng’, mà không chú ý đến ‘Như lai’, điều này đối với nguồn gốc của tư tưởng Như lai tạng, cho đến ý nghĩa chân chánh của Như lai tạng trong Phật pháp, có thể không đạt được kết luận chánh xác vậy! Cho nên đối với như lai là tên gọi khác của thần ngã, cái kiến giải của các học giả thần giáo của thế gian này, tất yếu có mang nó tuyên bố ra. Garbha là thai tạng. Tôn giáo học của Ấn độ mà có ứng dụng thuyết thai tạng, là vô cùng xa xưa. Ở trong bài tán ca về đấng sáng tạo của Lê-câu-phệ-đà, thì có thuyết thai vàng (hiraṇya-garbha) [kim thai] của Sanh chủ (prajāpati) là vị thần sáng tạo.9 Từ cái thai vàng ấy mà sanh khởi ra tất cả, là một loại thuyết sáng tạo vào thời cổ đại của Ấn độ. Thai là bào thai [thai tạng], cho nên cái thần thoại về đấng sáng tạo này, là sanh sản [sanh thực] – thuyết sanh trưởng và phát triển; là đem quan niệm sanh sản của sự có mang và sanh đẻ của nhân loại, ứng dụng vào sự sáng tạo của vị thần tối cao (Sanh chủ) mà được nhân cách hóa. Phật giáo Đại thừa, trong sự phát triển, Như lai và tạng (giới tạng và thai tạng), là phát triển khác nhau, phương hướng của phát triển cũng là cực kỳ phức tạp. Như lai của lý tưởngsiêu việt ấy, tại nhân vị [còn trong địa vi tu nhân] của Bồ-tát, có thí dụ về đản sanh, rất có có khả năng là do đó mà dẫn đến phát sanh ra Như lai tạng – giáo thuyết về Như lai ở trong thai tạng. Từ nghĩa phương pháp luận của Như lai tạng mà nói, coi bộ giống như là thuyết thai tạng của cổ đại, nhưng đã nhận lấy dáng vẻ mới để tái hiện. Có lẽ là xem trọng 3 nghĩa của Như lai tạng, để nghiên cứu ý nghĩa của ‘tạng’. Thực tế, ‘tạng’ của Như lai, chủ yếu là cái dụ bào thai của thông tục. Như lai ở trong địa vị chúng sanhbào thai, tuy không có xuất hiện ra, mà trí huệ đức tướng của Như lai đã vốn có đầy đủ rồi. Thuyết Như lai tạng, cùng với cái ngã chân thường, cái tâm chân thường – chân thường duy tâm luận của Đại thừa hậu kỳ, là không thể tách rời.

 


 

(I) Bất tăng bất giảm kinh, T. 16, tr. 467b. (a) 3148因 明用語。指因明論式中,構成宗體之前陳(主詞)與後陳(賓詞)。如立「聲是無常」之宗(命題),此乃宗之全體,稱爲總宗、宗體。宗體所依以構成之分子,稱 爲別宗、宗依。「聲」與「無常」各爲宗之一部分,各爲宗體所依以構成者,故稱別宗、宗依。在因明對論中,規定宗依必須是立(立論者)、敵(問難者)雙方共 同認可者,此乃確立宗之必要條件。〔因明入正理論疏卷上〕(參閱「宗體」3170) (b) Skt: sarvaṃ ca yujyate tasya śūnyatā yasya yujyate | sarvaṃ na yujyate tasya śūnyaṃ yasya na yujyate ||14|| (c) 3248爲阿賴耶識之異名。唯識宗以所立之遍計所執性、依他起性、圓成實性等三性爲所知法,三性所依止者即阿賴耶識,故稱此識爲所知依。 (d) Kinh phú luận bần - 經富論貧 – xin xem: Duy-ma-cật kinh huyền sớ 3, T. 38, tr. 831c-832a. (e) 1145教判之名。即詮判如來一代聖教為五類教旨。<一>華嚴三祖賢首所立,稱為賢首五教。即:(一)小乘教(愚法聲聞教),(二)大乘始教(權教),(三)大乘終教(實教),(四)頓教,(五)圓教。 (f) 1146)唐代圭峰宗密所立,即:(一)人天教,乃說三世業報善惡因果之理,修四禪八定者。(二)小乘教,說我空之理,修無我之觀智,以斷貪等諸業,證得我空真如。(三)大乘法相教,相當於相始教。即說唯識所變之理,修唯識觀及六度四攝,並伏斷煩惱、所知二障,證二空真如。(四)大乘破相教,相當於空始教,說一切皆空之理,觀無業無報無修無證,以破諸法定相之執。(五)一乘顯性教,乃藉方便隱密,直指自心即是本覺之真性,離諸妄想執著,得於自身中,見如來廣大之智慧。 (g) Về ngài Tứ minh Pháp trí - 四明法智 (960~1028), xin xem Bát thập bát Tổ đạo ảnh truyện tán 4, X86, no. 1608, p. 640, a1-21; hoặc Phật quang đại từ điển, điều 3464 – Tri lễ.


1 Tứ minh tôn giả giáo hành lục 2, T. 46, tr. 871c. (i) Cô sơn trí viên - 孤山智圓 (976~1022). (j) Trí húc - 智旭 (1599~1655). 2 Đại thừa khởi tín luận liệt cương sớ 1, T. 44, tr. 422c. 3 Trung quốc Phật giáo, Thái hư Đại sư toàn tập, tập 1, tr. 539. (k) Nguyên tác Hán văn: Phật tạng trạch pháp nhãn đồ- 佛藏擇法眼圖; và Như lai tạng tâm mê ngộ đồ- 如來藏心迷悟圖. 4 Phật tạng trạch pháp nhãn đồ, Thái hư Đại sư toàn tập, thiên , tr. 317. Như lai tạng tâm mê ngộ đồ, Thái hư Đại sư toàn tập, tập 7, tr. 1723. (a) 4220<一>謂如來所得之法真實常住。楞嚴經卷四(大一九‧一二一中):「世尊諸妄一切圓滅,獨妙真常。」 <二>指如來真空常寂的涅槃之境。Từ điển Phật học của Đinh Phúc Bảo. 1 Như lai hưng hiển kinh 3, T. 10, tr. 607c. 2 Đại ai kinh 6, T. 13, tr. 439b-c. 3 Xuất Tam tạng ký tập 2, T. 55, tr. 9c-10a. 4 Xuất Tam tạng ký tập 8, T. 55, tr. 60b. 5 Xuất Tam tạng ký tập 8, T. 55, tr. 60a. 6 Xuất Tam tạng ký tập 14, T. 55, tr. 103a. 7 Xuất Tam tạng ký tập 4, T. 55, tr. 30b. 8 Xin xem tác phẩm của tôi: Sơ kỳ Đại thừa Phật giáo chi khởi nguyên dữ khai triển, tr. 610-612. 9 Bà-tẩu-bàn-đậu Pháp sư truyện, T. 50, tr. 191a. 10 Trung Thôn Thụy Long, Phạn Hán đối chiếu Nhất thừa cứu cánh Bảo tánh luận nghiên cứu, phần Tự, tr. 58-61. (a) 從博返約: 释义 指做学问从广博出发,继而务精深,最终达到简约。出处 《孟子·离娄下》:“博学而详说之,将以反说约也。” 1 Cứu cánh nhất thừa Bảo tánh luận 3, T. 31, tr. 835b. 2 Đại Bảo tích kinh 119, Thắng man phu nhân hội, T. 11, tr. 677c. (I) A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận 1, T. 29, tr. 5a. (b) Skt: gotrārtho dhātvarthaḥ. yathaikasmin parvate bahūny ayastāmra-rūpyasuvarṇādi-gotrāṇi dhātava ucyante. 3 Nhiếp Đại thừa luận bản, q. trung, T. 31, tr. 140c. 4 Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 27, T. 9, tr. 573a. 5 Đại Tỳ-lô-giá-na thành Phật kinh sớ 14, T. 39, tr. 725b. (II) Đại trí độluận 2, T. 25, tr. 71b. 6 Kim cang bát-nhã ba-la-mật kinh, T. 8, tr. 750b. (III) Đại trí độluận 55, T. 25, tr. 454b-c. 7 Trung luận 4, T. 30, tr. 30a. 8 Đại trí độ luận, T. 25, quyển 2, tr. 74c; 2. Quyển 7, tr. 110a; 3. Quyển 42, tr. 368c. 9 Lê-câu-phệ-đà 10, 121.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14338)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
(Xem: 11493)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
(Xem: 12660)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12276)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11058)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10928)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13381)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11807)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13691)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11925)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11190)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12236)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12430)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20623)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12455)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12473)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11740)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11615)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22452)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13601)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29727)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11565)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16774)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12027)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16870)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12094)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17948)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12678)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13196)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14794)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22660)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10609)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14082)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13895)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13744)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13883)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13962)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14849)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13879)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18440)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22831)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15418)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17344)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22432)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14282)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12609)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11210)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17785)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13225)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13130)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18829)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17202)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13544)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12942)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14717)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14687)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15899)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13538)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27461)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13269)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant