Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

5. Sống Đời Tâm Linh

07 Tháng Mười 201300:00(Xem: 5963)
5. Sống Đời Tâm Linh

BẢN CHẤT CỦA HẠNH PHÚC
Cẩm Nang Cho Đời Sống
Nguyên tác:  The Essence Of Happiness – A Guidebook for living
Tác giả: His Holiness The Dalai Lama và Howard C. Cutter, M.D.
Chuyển ngữTuệ Uyển Tỳ kheo Thích Từ-Đức / 20 – 11 – 2010

5. SỐNG ĐỜI TÂM LINH

Chúng ta thường nghe người ta nói rằng tất cả con ngườibình đẳng. Qua điều này chúng ta muốn nói rằng mọi người có một khao khát rõ ràng về hạnh phúcMọi người có quyền là một con người hạnh phúc. Và mọi người có quyền chiến thắng khổ đau. Vì thế nếu ai đấy tìm thấy hạnh phúc hay lợi ích từ một truyền thống tôn giáo đặc thù, thì điều trở nên quan trọng là để tôn trọng những quyền căn bản của người khác; vì thế chúng ta phải học hỏi để tôn trọng tất cả những truyền thống tôn giáo quan trọng. Điều này là rõ ràng.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Một cách của việc làm mạnh sự tôn trọng hổ tương giữa những tôn giáo tín ngưỡng khác nhau là qua việc tiếp xúc. Sự tiếp xúc cá nhân. Qua loại tiếp xúc gần gũi này, chúng ta có thể học hỏi về những sự cống hiến hữu ích rằng những tôn giáo này đã làm cho con người, những việc tích cực, vì thế khi đối diện với những tôn giáo khác, vào lúc ban đầu một cảm giác tích cực, một cảm giác thoãi mái, sẽ sinh khởiChúng ta sẽ cảm thấy nếu người ấy tìm thấy một truyền thống khác thích hợp hơn, hiệu quả hơn, thế thì điều ấy là tốt! Rồi thì nó giống như đi đến một nhà hàng – chúng ta có thể ngồi xuống tại một bàn ăn và gọi những món ăn khác nhau tùy theo khẩu vị của mỗi người – chúng ta có thể ăn những món ăn khác nhau, nhưng không ai tranh cải về nó!

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Có quá nhiều thứ đã chia cách con người, quá nhiều vấn đề trên thế giớiTôn giáo nên là một phương pháp cứu chửa để giúp làm giảm thiểu xung đột và khổ đau trên thế giới – chứ không phải là một nguồn gốc nữa cho việc xung đột.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Có thể có hai trình độ của tâm linh. Một, người ta phải hành động với niềm tin tôn giáo. Nếu chúng ta tin tưởng bất cứ tôn giáo nào, điều ấy là tốt. Nhưng nếu ngay cả không có một niềm tin tôn giáo, chúng ta vẫn có thể giải quyết được. Trong một vài trường hợp, chúng ta có thể xoay sở thậm chí tốt hơn. Nhưng đấy là quyền cá nhân của chúng ta; nếu chúng ta mong ước một niềm tin, tốt! Nếu không, cũng tốt thôi. Nhưng thế thì có một trình độ khác của tâm linh. Đấy là điều mà tôi gọi là tâm linh căn bản – những phẩm chất căn bản của con người của lòng hào hiệp, tử tế, từ bi, ân cần. Cho dù chúng ta là những người có tín ngưỡng hay không, loại tâm linh này là căn bảnCá nhân tôi xem trình độ tâm linh thứ hai này quan trọng hơn trình độ thứ nhất, bời vì bất chấp một tôn giáo đặc thù nào có thể diệu kỳ như thế nào, nó sẽ vẫn chỉ được chấp nhận bởi một số giới hạn con người, chỉ một phần của nhân loại. Nhưng cho đến khi nào mà chúng ta vẫn là con người, cho đến khi nào mà chúng ta vẫn là những thành viên của gia đình nhân loại, tất cả chúng ta cần những giá trị tâm linh căn bản này. Không có những điều này, sự tồn tại của con người vẫn là khó khăn, rất khô khan. Như một kết quả, không ai trong chúng ta có thể là một con người hạnh phúc, toàn thể gia đình chúng ta sẽ khổ đau, và rồi, cuối cùng, xã hội sẽ rắc rối hơn. Do thế, rõ ràng rằng trau dồi những loại giá trị tâm linh cơ bản này trở nên cần yếu.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Nếu chúng ta thấu hiểu sự thực hành tâm linh trong ý nghĩa chân thật của nó, rồi thì chúng ta có thể sử dụng toàn bộ hai mươi bốn giờ một ngày của chúng ta cho việc thực hành của chúng taTâm linh chân thật là một thái độ tinh thầnchúng ta có thể thực hành bất cứ lúc nào.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Sự thực tập tâm linh thực sự trong một ý nghĩa nào đấy giống như một bộ ổn áp điện thế. Chức năng của bộ ổn áp là để ngăn ngừa những năng lực bất thường dấy lên và thay vì thế cho chúng ta một nguồn năng lực ổn định và liên tục.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Dấn thân vào việc rèn luyện hay một phương pháp của việc đem đến những sự luyện tập trong tâm thức con ngườicốt lõi của đời sống tôn giáo, một sự luyện tập có mục tiêu của việc trau dồi những thể trạng tinh thần tích cực. Do thế, con người có hướng đến một đời sống tinh thần hay không tùy thuộc trên việc con ngườithành công trong việc đem đến sự luyện tập ấy hay không, đấy là thuần hóa thể trạng của tâm thứcbiến thể trạng tâm thức ấy vào trong những hành vi hằng ngày của chúng ta.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Những người nghiên cứu đã thấy rằng ngay cả một nét cau mày hay mĩm cười cảm ứng giả tạo có khuynh hướng để cảm sinh cảm giác tương ứng của sân hận hay hạnh phúc, điều này thừa nhận rằng chỉ “đi qua những cảm xúc” và lập lại sự tiến hành trong một thái độ tích cực có thể cuối cùng đem đến một sự thay đổi nội tại chân thành

--- HOWARD CUTLER

Mặc dù những kinh nghiệm của con người là một kết quả của những hành vi quá khứ, điều ấy không có nghĩa là cá nhân không có sự lựa chọn hay không có chỗ cho việc bắt đầu để thay đổi… Chúng ta không nên trở thành thụ độngcố gắng để miễn trừ chính mình đối với việc tiếp nhận sự thay đổi cá nhân trên những nền tảng mà mọi thứ là một kết quả của nghiệp thức, bởi vì nếu chúng ta thấu hiểu khái niệm nghiệp báo một cách chính xác, chúng ta sẽ thấu hiểu rằng nghiệp báo có nghĩa là “hành động”…Vì thế, loại tương lai nào sẽ đến, trong một phạm vi rộng, tùy thuộc trong chính bàn tay của chúng ta trong hiện tại. Nó sẽ quyết định bằng những thứ mà chúng ta bắt đầu hành động bây giờ.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Bây giờ, bí mật hạnh phúc của chính tôi, tương lai tốt đẹp của chính tôi, là nằm trong tay tôi. Tôi không được đánh mất cơ hội ấy!

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1532)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1664)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1635)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1039)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1519)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1500)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1679)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1946)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1536)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1362)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1373)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1559)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1151)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1272)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1288)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1699)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1650)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3013)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1826)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1367)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1221)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1281)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1414)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1326)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1925)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1694)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1895)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1827)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2393)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1786)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2133)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2240)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2304)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1857)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1981)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2034)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1958)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2596)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1949)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1893)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1948)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1898)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2172)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2316)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1987)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2100)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1888)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1914)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2423)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2327)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 4003)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2490)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3205)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2474)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2049)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1803)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3315)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2348)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3032)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant