Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiên ĐườngĐịa Ngục Trong Đạo Phật (song ngữ)

29 Tháng Chín 201508:22(Xem: 8905)
Thiên Đường Và Địa Ngục Trong Đạo Phật (song ngữ)

Thiên ĐườngĐịa Ngục Trong Đạo Phật
(Heaven And Hell In Buddhism - London Buddhist Vihara)

Tu Viện Phật Giáo Luân Đôn (London)

Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến

Thien duong va dia nguc

Thiên ĐườngĐịa Ngục Trong Đạo Phật

1) ĐẠO PHẬT KHÔNG CÔNG NHẬN MỘT VỊ THƯỢNG ĐẾ, LÀ MỘT NGƯỜI SÁNG TẠO RA VŨ TRỤ. NHƯ VẬY, ĐẠO PHẬT ĐÃ GIẢI THÍCH NHƯ THẾ NÀO VỀ NGUỒN GỐC CỦA TRÁI ĐẤT, VÀ VŨ TRỤ?

Đây là một trong những câu hỏi mà Đức Phật đã không trả lời. Đức Phật nhận biết rằng, bất cứ câu trả lời nào của ngài, cũng sẽ tạo ra những sự bất đồng ý kiến, và sẽ có sự tranh luận kéo dài trong nhiều ngày. Đức Phật nói rằng, "Không ai có khả năng biết được, sự bắt đầu của thế giới luân hồi (trong các cuộc sống diễn tiến liên tục, ở trong vòng sinh tử). Con người vì thiếu hiểu biết, và bị trói buộc bởi lòng ham muốn, họ đãng trí, và hay đi lang thang, nên họ không thể nào nhận biết được nguồn gốc của con người.

Vũ trụ, và các thành phần của vũ trụ, phải tuân theo luật tuần hoàn của sự sinh ra, của sự chết đi, và của sự tái sinh, do đó thời điểm tuyệt đối khởi đầu của vũ trụ thì không-thể-nghĩ-bàn.

2) DÂN SỐ CỦA CON NGƯỜI TRÊN TRÁI ĐẤT ĐÃ ĐƯỢC TĂNG LÊN NHIỀU-TRIỆU NGƯỜI TRONG NHIỀU-NĂM. THEO Ý NGHĨA CỦA SỰ TÁI SINH, CHÚNG TA GIẢI THÍCH ĐIỀU NẦY NHƯ THẾ NÀO?

Theo các bản văn cổ, có vô số các hệ thống thế giới trong vũ trụ. Trái đất (là một cõi nhỏ không đáng kể trong vũ trụ), không phải là nơi duy nhất có sự sống tồn tại. Người ta nói rằng có ba-mươi-mốt cõi (thế-giới), hoặc là nơi chốn có các sinh vật trong vũ trụ, và trái đất nơi con người cư ngụ chỉ là một trong số các cõi nầy. Một chúng sinh được sinh ra từ một cõi nào đó, tùy thuộc vào nghiệp của họ. Đức Phật nói rằng số lượng của chúng sinh trong vũ trụ lớn đến nỗi, chúng ta không thể nào đếm hết được. Do đó, chúng sinh được sinh ra trong cõi người, có thể đã đến từ một trong ba-mươi-mốt cõi nói trên.

3) THIÊN ĐƯỜNGĐỊA NGỤC, CÓ THẬT KHÔNG?

Các kinh sách Phật Giáo nói rằng có ba-mươi-mốt cõi, hoặc là nơi chốn có các sinh vật trong vũ trụ, kể cả cõi người. Chúng sinh được sinh ra trong một cõi nào đó, tùy thuộc vào nghiệp đã tích lũy của họ.

Cõi thấp kém hơn cõi người, gồm có bốn cõi (A Tu La, Ngạ Quỷ (Quỷ Đói), Súc Sanh (Súc Vật), và Địa Ngục) được mô tả như là những cõi không-có-hạnh-phúc. Những chúng sinh bị sinh ra trong những cõi nầy, là do kết quả của những nghiệp bất thiện mà họ đã làm. Những chúng sinh tham lam quá mức, và có quá nhiều sự dính mắc vào của cải thế gian, có thể bị tái sinh vào cõi Ngạ Quỷ, và họ có thể bị lôi kéo đến nơi mà họ bị dính mắc.

Cõi cao đẹp hơn cõi ngườicõi Trời Chư-Thiên, và cõi Trời Phạm-Thiên. Khi chúng-sinh ở cõi cao hơn, thì sinh hoạt trong cuộc sống của họ có nhiều sự khôn khéo, và sự thông minh hơn, và những chúng sinh nầy có nhiều tuổi thọ hơn.

Những Chư-Thiên có hình tướng vật chất được cấu tạo từ những chất liệu tinh tế hơn so với cõi người. Họ có những giác quan giống như người, và họ tận hưởng cuộc sống với nhiều khoái lạc. Họ cũng có thể có nhiều phép thần thông.

Cõi Trời Phạm-Thiên được mô tả là cõi vừa có hình-tướng, và cũng là cõi không-có-hình-tướng. Trong cõi không-có-hình-tướng, họ hoàn toàn không có thân thể vật chất. Họ sống vượt ra khỏi các cảm giác về vật lý, và họ sống trong trạng thái bình an.

Chúng-sinh ở trong những cõi cao hơn, được mô tả như những Thiên Nhân, và tuổi thọ của họ được biết là kéo dài hàng tỷ năm, so với cuộc sống ở cõi người. Đấy cũng là lý do tại sao chúng ta gọi họ là những vị "Thần" hoặc vị "Trời."

Mặc dù tuổi thọ của chúng-sinh ở những cõi cao hơn kéo dài nhiều triệu năm, so với trái đất, nhưng cuối cùng, rồi họ cũng phải chết, vì cuộc sống trong tất cả các cõi nầy đều là có điều kiện. Đó là, sự hoạt động của luật nhân quả, và tất cả mọi sự vật có điều kiệnvô thường.

Đấy là ý nghĩa của các thuật ngữ 'Thiên Đường' và 'Địa Ngục' trong giáo lý của Phật Giáo. Cho nên, trong Đạo Phật, không có cõi trời vĩnh viễn, hoặc là địa ngục vĩnh viễn, giống như các tôn giáo khác đã giảng dạy.

4) NIẾT BÀN KHÁC BIỆT VỚI THIÊN ĐƯỜNG VĨNH-CỬU, MÀ ĐÃ ĐƯỢC NÓI ĐẾN TRONG NHỮNG TÔN GIÁO KHÁC, NHƯ THẾ NÀO?

Niết Bàn không phải là một cõi, nơi mà có cuộc sống. Niết Bàn có nghĩa là 'dập tắt ngọn lửa' - dập tắt đi những ngọn lửa, những lý do gây ra vòng sinh tử luân hồi - thế nên, Niết Bàn cũng có nghĩa là không-có sự tái sinh. Niết Bàn không thể được diễn tả theo kinh nghiệm bình thường của chúng ta, vì như thế thì rất hạn chế. Niết Bàn thì không lệ thuộc vào luật nhân quả, cho nên Niết Bàn thì vĩnh viễn.

Niết Bàn là một trạng thái chúng ta đạt được, khi chúng ta hãy còn sống; đây không phải là một điều gì đó chúng ta đạt được sau khi chết. Niết Bànchúng ta đạt được là kết quả do những nỗ lực của chính chúng ta, chứ không phải là kết quả do sự phán xét của một vị thần, hoặc một vị Thượng Đế.

5) CON NGƯỜI CÓ THỂ TÁI SINH LÀM SÚC VẬT, HOẶC LÀ CÂY CỎ, HAY KHÔNG?

Theo giáo lý, súc vậtchúng sinh cũng giống như con người, bao gồm sự kết hợp của tâm-và-thân (nama-rupa). Súc vật cũng không thể nào tránh khỏi nghiệp, giống như con người. Một chúng sinh bị sinh ra trong cõi súc sinh (là cõi thấp kém hơn cõi người) là kết quả của nghiệp bất thiện.

Cây cỏ không phải thuộc loại có thần thức (vinnana), giống như con người, cho nên, con người bị tái sinh thành cây cỏ là điều không thể xảy ra được.

Heaven And Hell In Buddhism

1. BUDDHISM DOES NOT RECOGNISE A CREATOR GOD. HOW IS THE ORIGIN OF THE EARTH AND THE UNIVERSE EXPLAINED IN BUDDHISM?

This was one of the questions at which the Buddha remained silent. The Buddha realised that any answer would create much controversy and argument. The Buddha said, “Without cognisable beginning is this samsara (cycle of existence). The earliest point of beings who, obstructed by ignorance and fettered by craving, wander and fare on, is not to be perceived”.

The universe and its components are subject to the cyclic law of birth, death and rebirth, therefore an absolute begining is inconceivable.

2. THE HUMAN POPULATION ON EARTH HAS BEEN INCREASING BY THE MILLIONS OVER THE YEARS. HOW CAN THIS BE EXPLAINED IN TERMS OF REBIRTH?

According to the ancient texts, there are countless world systems in the universe. The earth (an insignificant speck in the universe) is not the only place where life exists. It is said that there are thirty-one planes or states of existence in the universe and human plane is just one of them. A being is born to a particular plane depending on his accumulated kamma. The Buddha said that the number of beings in the universe is so vast that it cannot be counted. Therefore beings can be born from any of these planes into the human plane.

3. IS THERE A HEAVEN AND A HELL?

The Buddhist texts states that there are thirty one planes or states of existence in the universe, including that of humans. Beings are born into a particular plane depending of their accumulated kamma.

Below the human plane are four planes (Asura,Peta,Thiracchana and Niraya) which are described as unhappy states of existence. Beings are born into these states as a result of their unwholesome kamma. Excessive greed and attachment to worldly belongings may cause re-birth in the Peta plane and be drawn to the place of attachment.

Above the human plane are the Deva and Brahma planes. As the level of plane becomes higher, more subtle is the state of existence and longer is the life span.

The Devas have physical forms which are composed of more subtle material than that in the human plane. They possess physical senses as in humans and enjoy a life of great pleasure. They may also possess supernormal powers.

The Brahma planes are described as form and formless states. In the formless states, the beings are devoid of any material bodies. They transcends all physical sensations and exist in a state of equanimity.

Beings in these higher planes are described as celestial beings and their life span is said to last billions of years relative to earthly life.

It may well be that so called 'gods' are such beings.

Even though the life-spans in these higher planes of existence last millions of years relative to earth, they eventually come to an end, since the existence in all these planes are conditioned: that is, the laws of cause and effect operate, and all conditioned things are impermanent.

This is what is meant by the terms ‘heaven' and 'hell' in Buddhist teachings: there are no permanent heavens or hells as taught in other religions.

4. HOW IS NIBBANA DIFFERENT FROM THE EVER­LASTING HEAVEN, AS TAUGHT IN SOME RELIGIONS?

Nibbana is not a realm of existence. Nibbana literally means ‘blowing out’ - blowing out the causes that produce results in the cycle of life - hence there will be no rebirth. Nibbana cannot be described in terms of our normal experience, which is so limited. Nibbana is not subject to the law of cause and effect, therefore it is permanent.

Nibbana is a state to be attained whilst we are still alive; it is not something we reach after death. It is to be attained as a result of our own efforts, not from the judgment of a divine being.

5. CAN HUMANS BE REBORN AS ANIMALS OR TREES?

According to the teachings, animals are sentient beings just as humans, comprised of mind-matter (nama-rupa) combination. They are subject to the same kammic laws as humans. A being may be born in the animal plane (which is classed below that of human) as a result of unwholesome kamma.

Plants do not have the type of consciousness (vinnana) inherent in a sentient being, therefore rebirth as a plant or tree is not possible.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12653)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12268)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11049)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10922)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13375)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11797)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13682)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11918)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11185)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12214)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12415)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20609)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12442)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12468)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11731)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11609)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22445)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13587)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29712)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11553)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16767)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12019)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16859)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12085)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17939)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12656)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13185)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14776)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22644)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10597)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14070)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13882)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13736)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13881)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13952)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14844)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13868)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18429)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22816)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15409)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17337)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22426)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14278)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12596)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11181)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17778)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13221)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13118)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18812)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17196)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13533)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12933)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14710)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14668)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15888)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13531)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27451)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13258)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16739)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21405)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant