Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những Nghiên Cứu Về Pháp Hành Bí Truyền Của Theravāda

25 Tháng Mười Một 201507:06(Xem: 10186)
Những Nghiên Cứu Về Pháp Hành Bí Truyền Của Theravāda

NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ
PHÁP HÀNH BÍ TRUYỀN CỦA THERAVĀDA

Tống Phước Khải

 
Những Nghiên Cứu Về Pháp Hành Bí Truyền Của Theravāda

“Theravāda  Tantra”,  hay “esoteric practices of Theravāda ” là những thuật ngữ mà các học giả phương tây sử dụng để gọi các pháp hành mang tính bí truyền của hệ thống Phật giáo Nam truyền mà họ đã phát hiện ra khi nghiên cứu thực tế tại các thiền lâm hoặc tự viện thuộc hệ thống này. Từ này trong tiếng Việt tạm dịch ra là “Mật Pháp của Theravāda . Nội dung những khám phá cho thấy phương pháp thực hành có những nét đặc thù, tương tự như pháp hành Tantra của Ấn Độ Giáo hoặc của Kim Cương Thừahoàn toàn khác  biệt với những giáo lý phổ biến được rộng truyền qua sách vở và các bài giảng thông thường của truyền thống Theravāda.

I. SỰ TỒN TẠI CỦA TRUYỀN THỐNG MẬT TRONG THERAVĀDA  

Bhikkhu Santidhammo, một nhà sư Theravāda  người Mỹ, thuộc trường phái Maha Ghosananda của Campuchia, đã dành hẳn một bài viết mang tựa đề “Theravāda  Tantra”, trong đó dẫn cứ rất nhiều tài liệu của các nhà nghiên cứu về những phát hiện này. Ông đã dùng cụm từ “esoteric tradition” để ghi nhận về sự tồn tại của truyền thống mật giáo tại Campuchia. Ông viết: “Though the words “tantra” and “vajrayana” are unknown in Cambodian sphere, the esoteric tradition exists” (1). Nghĩa Việt: “Mặc dù các từ “tantra” và “vajrayana” thì không được biết đến tại lãnh địa Campuchia, nhưng có sự tồn tại của truyền thống mật giáo (tại nơi đây).

Bhikkhu Gavesako, một nhà sư người Czech, tu học theo trường phái Ajahn Chah, trong phần trả lời câu hỏi của độc giả trên diễn đàn Phật học cũng minh họa nhiều tài liệu về vấn đề “Tantric Theravāda ”. Ông ghi nhận rằng từ “tantra” trong ngữ cảnh trên nhằm đề cập đến những pháp hành đã tồn tại hàng thế kỷ tại các nước Phật giáo Nam truyền Đông Nam Á. Bên cạnh đó, ông đã sử dụng thuật ngữtantric chant” để giới thiệu một bài tụng mật truyền có tên là Jinapañjara Gāthā, của hệ phái Theravāda  gồm 2 phiên bản Thái Lan và Sri Lanka, kèm theo là một video minh họa cho bài kệ này.

Ông viết: “Many Thai Buddhists know the tantric chant Jinapanjara Gatha by heart and it is also chanted in some of the forest monasteries of Ajahn Mun tradition. Here is a video demonstrating visually how the "protective cage" around you is gradually being built through the power of Buddhas, Arahants and Suttas” (2). Nghĩa Việt: “Nhiều Phật tử Thái Lan thuộc lòng bài tụng mật truyền Jinapanjara Gatha và bài này cũng được đọc tụng trong một số thiền lâm viện của trường phái Ajahn Mun.  Đây là một video minh họa trực quan về “chiếc lồng bảo hộ” xung quanh bạn được kiến tạo tuần tự bởi năng lực của Phật, A La HánKinh Điển.”

L. S. Cousins, một giáo sư hàng đầu trong lĩnh vực nghiên cứu Phật học, từng là chủ tịch của Pāli Text Society, đã ghi nhận rằng: “Buddhaghosa mentions secret texts (gūḷhaganthaṃ) in three of his works, in the context of teachings which will not be received from a teacher if one does not pay proper respect” (Cousins, p.192).” Nghĩa Việt: “Buddhaghosa đề cập đến các văn bản mật (gūḷhaganthaṃ) trong ba tác phẩm của mình, rằng trong quá trình dạy dỗ thì những văn bản này sẽ không được ông thầy truyền trao  nếu như người đó không tỏ sự tôn kính đúng mực.”

II. NHỮNG NGHIÊN CỨU CỦA FRANÇOIS BIZOT VÀ MỘT SỐ HỌC GIẢ

Truyền thống Mật Pháp của Theravāda  đã được nhiều học giả phương tây phát hiện và nghiên cứu rất chi tiết. Người tiên phongnổi bật trong lĩnh vực nghiên cứu này là François Bizot, giáo sư danh dự của Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp, ông đã thâm nhập thực tế, học tập và sành sõi tiếng Khmer, sinh sống hằng nhiều năm trời tại Campuchia để tiếp cận các hình thức văn hóa bản địa. Sau đó ông đã cho ra đời nhiều tác phẩmgiá trị lớn lao về văn hóa Phật giáo bản địa Campuchia.  Những tác phẩm này đã trở thành tài liệu tham chiếu không thể thiếu đối với những học giả nghiên cứu về Phật giáo Theravāda  vùng hạ lưu sông Mekong, nhất là những pháp hành bí truyền của hệ phái này mà ngày nay khó có thể tiếp cận được. Các tác phẩm tiêu biểu của ông gồm:

1- La figuration des pieds du Bouddha au Cambodge (1971).

2- Le figuier à cinq branches: Recherche sur le bouddhisme khmer I (1976).

3- La grotte de la naissance: Recherches sur le bouddhisme khmer II (1980).

4- Le don de soi-même: Recherches sur le bouddhisme khmer III (1981).

5- Notes sur les yantra bouddhiques d'Indochine (1981).

6- Les traditions de la pabbajja en Asie du Sud-Est: Recherches sur le bouddhisme khmer IV (1988).

7- Ramaker ou l’amour symbolique de Ram et Seta: Recherches sur le bouddhisme khmer V (1989).

8- Le chemin de Lanka: Textes bouddhiques du Cambodge I (1992).

9- La guirlande de joyaux: Textes bouddhiques du Cambodge II (1993).

10- Le bouddhisme des Thais, Brève histoire de ses mouvements et de ses idées des origines à nos jours (1994).

11- Recherches nouvelles sur le Cambodge (1994).

12- La pureté par les mots: Textes bouddhiques du Laos (1996).

Bên cạnh đó, trong hai thập niên qua đã lần lượt xuất hiện nhiều nghiên cứu mới của các học giả về vấn đề mật pháp của Theravāda  như:

- “Aspects of Esoteric Southern Buddhism” của Lance Selwyn Cousins (1997).  

- “Meditation and Healing in the Theravāda  Buddhist Order of Thailand and Laos” của của Mettanando Bhikkhu (1999).

- “The Impact of the Abhayagiri Practices on the Development of Theravāda Buddhism in Sri Lanka” của R. Chandawimala Thero (2007).

- “The Sutta on Understanding Death in the Transmission of Boran Meditation From Siam to the Kandyan Court” của Kate Crosby, Andrew Skilton, Amal Gunasena (2012).

- “Traditional Theravāda meditation and its modern-era suppression” của Kate Crosby (2013).

III. MỘT SỐ NỘI DUNG TRONG CÁC NGHIÊN CỨU

1. Việc sử dụng Yantra

Yantra một một hình vẽ để biểu thị một ý nghĩa hay một năng lực huyền bí nào đó. Từ tiếng Việt gọi nôm na là “lá bùa”. Trong tác phẩm của mình Bizot đã trình bày rất nhiều loại Yantra (3). Phổ biến nhất là Yantra hình thành từ các chữ trong câu niệm 9 Ân Đức của Phật bằng tiếng Pāli:

iti pi so bhagavā arahaṃ sammā-saṃbuddho vijjācaraṇasaṃpanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathī satthā devamanussānaṃ buddho bhagavā ti

Bizot minh họa tất cả 81 Yantra được thành lập dựa trên câu Chín Ân Đức này, trong đó có Yantra được sắp xếp theo hình dáng Đức Phật đang ngồi. Ngoài việc đọc xuôi, tức đọc câu niệm 9 Ân Đức theo cách bình thường, còn có các phương pháp đọc khác chẳng hạn nhưng đọc ngược từng chữ từ cuối câu lên đầu câu. Mỗi cách đọc là một Thần chú (Mantra) có công năng khác nhau.

Hình ảnh sau đây minh họa một Yantra Chín Ân Đức của Phật.

- Yantra bên phải là Yantra nguyên bản. Tiếng Pāli của 9 Ân Đức được viết bằng chữ Khmer.

- Yantra bên trái là minh họa âm đọc dựa theo các chữ đã ghi trên Yantra.

Lam sao nhan dien

Các chữ trên Yantra có thể được sắp xếp lại theo bảng sau:

I

RA

GA

TA

RA

TI

HAṂ

CA

TO

RO

THĪ

NAṂ

PI

SAM

RA

LO

PU

SAT

BUD

SO

ṆA

KA

RI

THĀ

DHO

BHA

SAṂ

SAṂ

VI

SA

DE

BHA

GA

BUD

PAN

DAM

VA

GA

DHO

NO

A

MA

MA

A

VIJ

SU

NUT

NUS

TI


Tại Sri Lanka, Chín Ân Đức của Phật bằng tiếng Pāli cũng được sử dụng để tạo thành một Yantra. Trong một nghiên cứu của Tiến sĩ người Sri Lanka, nhà sư R. Chandawimala Thero, ông đã tìm thấy Yantra này trong quyển sách Purāṇa Seth Pirith tiếng Sri Lanka. Yantra có tên là Māravijaya Yantra. Ông ghi nhận đây là một dạng thức bí mật được dùng cho những người tu ở chốn sơn lâm (“The Āraṇyaka Pirita and Māravijaya Yantra are two secret formulas used by yogīs, who practice in forests”). Trên Yantra, mỗi Ân Đức đều có kèm theo một câu chú. Lược đồ vị trí các chữ trên Yantra được sắp xếp theo bảng sau:

ITIPISO oṃ taṃ rāja maṇḍalaṃ

BHAGAVĀ oṃ deva taṃ maṇḍalaṃ

ARAHAṂ oṃ rāja taṃ maṇḍalaṃ

SAMMĀ-SAṂBUDDHO oṃ taṃ deva maṇḍalaṃ

VIJJĀCARAṆA oṃ taṃ deva maṇḍalaṃ

SAṂPANNO oṃ taṃ dūta maṇḍalaṃ

SUGATO oṃ taṃ vajra maṇḍalaṃ

LOKAVIDŪ oṃ taṃ duka maṇḍalaṃ

oṃ viṣa ṭiṃ

praleya

yakṣa yakṣṇī

pralesvahaṃ

ANUTTARO oṃ taṃ brahma maṇḍalaṃ

PURISADAMMA oṃ taṃ yakṣa maṇḍalaṃ

SĀRATHĪ oṃ taṃ brahma maṇḍalaṃ

SATTHĀ oṃ taṃ yakṣa maṇḍalaṃ

DEVA

MANUSSĀNAṂ

BUDDHO

BHAGAVĀ TI

oṃ taṃ īśvara maṇḍalaṃ

oṃ taṃ kahapati-manesvāhaḥ

oṃ taṃ īśvara maṇḍala

Nenavahaḥ


Việc bố trí Yantra theo hình thức như trên không thấy tồn tại trong các hình thức của Kim Cương Thừa (Vajrayana), do đó đây chỉ có thể là một hình thức riêng của hệ phái Theravāda, tuy nhiên pháp thực hành này không phổ truyền.

2. Việc sử dụng tiếng OṂ

Xem lại Yantra được sử dụng tại Sri Lanka như đã trình bày ở trên, chúng ta thấy có rất nhiều những câu chú được ghi trên đó bắt đầu bằng chữ OṂ như: oṃ taṃ rāja maṇḍalaṃ, oṃ deva taṃ maṇḍalaṃ, oṃ taṃ deva maṇḍalaṃ, oṃ taṃ dūta maṇḍalaṃ, oṃ taṃ vajra maṇḍalaṃ, oṃ taṃ duka maṇḍalaṃ v.v.

Trong các bài tụng tiếng Pāli có một bài ca ngợi ý nghĩa của chữ OṂ biểu trưng cho Tam Bảo, đó là bài NAMOKĀRAṬṬHAKA (tám namo) như sau:

Namo Arahato sammā-sambuddhassa mahesino      

Namo Uttama-dhammassa svākkhātasseva tenidha      

Namo Mahā-saṅghassāpi visuddha-sīla-diṭṭhino          

Namo omātyāraddhassa ratanattayassa sādhukaṃ   

Nghĩa tiếng Việt:

Con xin đảnh lễ Bậc Đại Ẩn Sĩ, Bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác.

Con xin đảnh lễ Giáo pháp tối thượng, được khéo thuyết giảng tại đây.

Con xin đảnh lễ đại Tăng chúng, có giới và kiến thanh tịnh.

Con xin đảnh lễ một cách tốt đẹp đến Tam Bảo được bắt đầu bằng OṂ (5).

Các ký tự đầu của các từ trong bài kệ gồm: Arahato, Uttama-dhammassa, Mahā-saṅghassāpi ghép lại sẽ thành lập chữ AUM tức là chữ OṂ.  Trong đó A biểu trưng cho Phật, U biểu trưng của Pháp, M biểu trưng cho Tăng.

Trong nghiên cứu của Bizot cũng ghi nhận việc sử dụng các mẫu tự âm MA, A, U thành lập một thần chú sử dụng trong việc hành thiền. Mỗi mẫu tự đều mang ý nghĩa biểu trưng cho một đối tượng của của Pháp Hành. Ví dụ:

MA: hít vào, U: thở ra, A: giữ tại rốn.

MA: tạng Luật, U: tạng Vi Diệu Pháp, A: tạng Kinh

MA: khổ, U: vô thường, A: vô ngã

3. Việc sử dụng thần chú qua các âm mang ý nghĩa biểu trưng

Trong nghiên cứu của mình, Bizot đã ghi nhận rất nhiều thần chú sử dụng theo cách kết hợp các âm của chữ. L. Cousins đã tóm tắt các chức năng biểu thị của thần chú như sau (6):

A PĀ MA CU PA: đây là biểu trưng 5 quyển sách của Tạng Luật.

DI MAṂ SAṂ AṂ U: đây là biểu trưng 5 quyển sách của Tạng Kinh.

SAṂ VI DH Ā PU KA YA PA: đây là biểu trưng 7 quyển sách của Tạng Vi Diệu Pháp.

Thần chú ARAHAṂ thì được L. Cousins dẫn trong Vimuttimaggadassana như sau: A: Phật, RA: Tăng, HAṂ: Pháp.

Câu NA MO BU DDHĀ YA thì được phân tích thành:

NA: 12 đức hạnh của mẹ

MO: 21 đức hạnh của cha

BU: 6 đức hạnh của vua

DDHĀ: 7 đức hạnh của gia đình

YA: 10 đức hạnh của thầy.

Ngoài ra, L. Cousins cũng ghi nhận sự kết hợp của bộ 3 passāsa, assāsa và nissāsa với câu chú có 7 âm SAṂ VI DHĀ PU KA YA PA và 4 thành tố NA MA A U, hành giả sẽ nhận được 14 ân đức của  một vị Thánh Tăng

IV. PHÁP THIỀN CHÍNH THỐNG BORĀN KAMAṬṬHĀNA

Vào năm 2012, một nhóm học giả nghiên cứu Phật học gồm Giáo sư Andrew Skilton, Giáo sư Kate Crosby, Tiến sĩ Amal Gunasena đã công bố một khám phá mới qua tập tài liệuThe Sutta on Understanding Death in the Transmission of Borān Meditation From Siam to the Kandyan Court.” Nghĩa Việt: “‘Kinh Hiểu Biết Cái Chết’ trong quá trình truyền bá pháp thiền Borān từ Thái Lan sang vương triều Kandy.”  Trong tài liệu nghiên cứu này, các tác giả đã dịch một văn bản tiếng Sri Lanka được tìm thấy tại Thư viện Anh Quốc ở London. Qua đó, minh chứng được rằng Pháp Thiền bí truyền Borān (Borān Kamaṭṭhāna) đã được công nhậnchính thống trong pháp hành dành cho các Chư Tăng của hệ phái Theravāda  tại Sri Lanka trước đây.

Tuy rằng pháp thiền Borān đã được Bizot ghi nhận tồn tại ở Campuchia và Thái Lan, nhưng sự hiện diện của nó tại Sri Lanka là một khám phá mới mẻ. Chẳng những thế, pháp thiền này còn là một phương pháp chính thống mà ngày nay không thấy được nhắc đến. Người học thiền Theravada ngày nay chỉ được học các pháp thiền như Minh Sát, An Chỉ.  

Khi so sánh bản kinh Hiểu Biết Cái Chết (Maraṇañānasutta) với  Figuier à cinq branches của Bizot, các tác giả nhận thấy nội dung của câu chuyện cơ bản là giống nhau. Câu chuyện trong kinh bản như sau: Tâm, là công chúa Cittakumārī, phải giết 5 con chim trên 5 nhánh của một cái cây để tìm ra viên ngọc quý là Tứ Thánh Đế, và do đó tìm thấy Niết Bàn. Điều khác biệt gây sự ngạc nhiên là trên thủ bản Sri Lanka có mô tả hình ảnh Māra cưỡng hiếp công chúa Cittakumārī.

Pháp Thiền Borān đã được Kate Crosby trình bày trong quyển sách tựa đề: “Traditional Theravāda meditation and its modern-era suppression.” và được xuất bản vào năm 2013.  Đặc điểm của Pháp Thiền này được ghi nhận là một phương thức bí truyền của Theravāda . Khởi sự của một thời thiền này cũng giống như cách thiền ghi nhận trong Thanh Tịnh Đạo. Tuy nhiên, điểm khác biệt là khi hành giả có được Nimitta (định tướng) thì dẫn nó qua mũi đi vào trong cơ thể, lần lượt định vị tại các huyệt khác nhau, và sau đó lưu giữ lại trong thai tạng. Ngoài ra, còn có sự kết hợp phức tạp của các Nimitta để tạo thành một Đức Phật nội tại cũng như tạo ra khả năng ảnh hưởng đến đối tượng bên ngoài. (7)

 

 (1) Bhikkhu Santidhammo, Theravāda  Tantra, URL: http://santidhammo.blogspot.com/2011/11/Theravāda -tantra.html

(2) Bhikkhu Gavesako, Tantric Theravāda ?, URL: http://www.dhammawheel.com/viewtopic.php?t=10503

(3) Bizot F., 1993, La guirlande de joyaux: Textes bouddhiques du Cambodge II,  Paris, EFEO (Textes bouddhiques du Cambodge, 2, Publication du FEM), pp. 57-84.

(4) Chandawimala, R., 2007, The Impact of the Abhayagiri Practices on the Development

of Theravāda Buddhism in Sri Lanka,  Ph.D. dissertation, University of Hong Kong, p.223.

(5) Tống Phước Khải, Ý nghĩa của tiếng OM trong thần chú tiếng Pāli và Sanskrit, URL: https://kinhmatgiao.wordpress.com/2015/02/26/y-nghia-cua-tieng-om-trong-than-chu-tieng-Pāli-sanskrit/

(6) Cousins, L. S., 1997,  Aspects of Esoteric Southern Buddhism’, in P. Connolly/S.

Hamilton (eds.), Indian Insights: Buddhism, Brahmanism and Bhakti: papers from the

annual Spalding Symposium on Indian Religions, London, Luzac Oriental, pp. 96-98.

(7) Crosby, K., 2013, Traditional Theravāda meditation and its modern-era suppression, Hong Kong: Buddha Dharma Centre of Hong Kong.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34637)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32230)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30447)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30717)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 21042)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20218)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19457)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24407)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30723)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15712)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27831)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19791)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15591)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23282)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23602)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17553)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15733)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21938)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 38060)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22220)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23296)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21397)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28450)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32599)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25228)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34722)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 22995)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27750)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31339)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13626)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25242)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27881)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22139)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20764)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22232)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27190)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24180)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21959)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14749)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23208)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 24057)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21171)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14225)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19970)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22560)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14099)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 28081)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22889)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28243)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 11033)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28540)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31617)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26231)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 15003)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28059)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7483)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25409)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20725)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21158)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12276)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant