Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Điểm Xuất Phát, Chủ Đề, Và Quan Tâm Tối Hậu Của Trung Luận Của Long Thọ

09 Tháng Giêng 201609:50(Xem: 8726)
Điểm Xuất Phát, Chủ Đề, Và Quan Tâm Tối Hậu Của Trung Luận Của Long Thọ

Nguyệt  Xứng
ĐIỂM XUẤT PHÁT, CHỦ ĐỀ, VÀ
QUAN TÂM TỐI HẬU
CỦA TRUNG LUẬN
CỦA LONG THỌ


Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc

Bản dịch Anh: Bản Anh Ngữ : Lucid Exposition of the Middle Way. Prasannapada of Candrakirti.
Translated by Mervyn Sprung. Routledge, London. 1979 (Nguyệt Xứng. Minh Cú Luận)

 

Điểm Xuất Phát, Chủ Đề, Và Quan Tâm Tối Hậu Của Trung Luận Của Long Thọ

Kính Lễ của ngài Nguyệt Xứng gửi tới Ngài Long Thọ

***

Sau khi tôi đỉnh lễ ngài Long Thọ,

vị xuất sinh từ trí tuệ đại hải của đấng toàn giác,

và vị vượt trên cõi nhị nguyên,

vị đại bi khai hiển chân lý thâm mật của bảo tạng Phật Pháp

vị bằng tuệ quán tăng thượng, thiêu hủy hoàn toàn các tri kiến của các đối thủ của ngài như chúng là nhiên liệu, và phá hủy hoàn toàn bóng tối trong các tâm trí của loài  người ;

các pháp thoại của ngài về trí tuệ siêu việt, giống như vô số nêu và đích của con đường tỉnh biết (tiêu chuẩn của hồng tâm giác), giải tán hoàn toàn các đối nghịch với đời sống;

các ngôn từ của ngài là cương yếu diệu mỹ cho sinh hoạt trong ba cõi (cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc) và cũng cho các phật tửchư thiên;

Sau khi tôi đỉnh lễ

Tôi sẽ giải thích tường tận bộ Trung Luận của ngài trong các biểu từ chính xác, lý hội đầy đủ, trong sáng và không có các biện luận vô bổ

***   

Điểm xuất phát, chủ đềquan tâm tối hậu của Trung Luận của  Long Thọ 

Bộ luận tuyệt vời chúng ta sắp thảo luận là bộ luận khởi đầu với kệ tụng ‘Không từ chính chúng, cũng không từ cái khác, cũng không từ cả hai…”

Chúng ta phải hỏi điểm xuất phát là gì, chủ đề là gì, và quan tâm tối hậu của bộ luận tuyệt vời này là gì. Trong Nhập Trung Đạo [Nguyệt Xứng. Nhập Trung Đạo/ Madhyamakavatara] , điều được khẳng định là trí tuệ siêu việt của đấng toàn giácđiểm xuất phát từ một bản nguyện phát bồ đề tâm bắt nguồn từ đại bi, và được hỗ trợ với sự lý hội thông hiểu vượt trên tính nhị nguyên.

Trong quan niệm này ngài Long Thọ, nhận biết chính xác làm cách nào  giảng dạy trí tuệ siêu việt, đã tăng trưởng bộ luận này do lòng đại bi và cho sự giác ngộ của các người khác. Nền tảng của bộ luận này, có thể nói là “Một bộ luận đáng tin cậy có một giáo pháp là một căn cứ vững mạnh để chế ngự các phiền não tai hại và để tập quen vượt qua các biến dịch thăng trầm của đời sống. Hai phẩm tính này không được tìm thấy trong bất kỳ các bộ luận khác”

Ngài Long Thọ cho chúng ta một tổng quan về chủ đềquan tâm tối hậu của bộ luận sâu sắc chúng ta sắp thảo luận. Với tính phân minh chính xác của thánh trí, và ý nguyện tôn kính, bằng một bộ luận, vị thầy vô thượng, vị toàn giác không hề ly cách với tồn sinh và chân lý của thánh trí, ngài nói

“Tôi đỉnh lễ đấng toàn giác, vị thầy vô thượng của các vị thầy, ngài thuyết giảng

Cái gì duyên khởi,

Không diệt, không sinh, không đoạn, không thường,

Không đến, không đi, không sai biệt, không đồng nhất

niết bàn tịch tĩnh hoàn toàn, không có các cấu trúc của tưởng [về hiện hữu tự tính và tính nhị nguyên]”

Duyên khởi [= thật tướng của sự vật], trong tướng trạng miêu tả bởi tám phương diện “không diệt, không sinh” và các tương tự, là chủ đề của bộ luận này.

Quan tâm tối hậu của bộ luận này được minh bạch khẳng định là niết bàn (nirvana) : sự tịch tĩnh đến để làm an tĩnh các cấu trúc của tưởng / các phương diện của các sự vật được đặt tên (sarvaprapancopasama).

Lời kính lễ được ghi trong các từ ngữ “Tôi đỉnh lễ vị thầy vô thượng của các vị thầy”.

---------

Bản Anh Ngữ : Lucid Exposition of the Middle Way . Prasannada. of Candrakirti. Translated by Mervyn Sprung. Routledge. London, 1979

Candrakirti’s Salutation to Nagarjuna

*

After making my obeisance to Nagarjuna,

who was born of the ocean of wisdom of the perfectly enlightened one and who rose above the realm of dualities,

who compassionately brought to light  of hidden truth of the treasury of Buddhism in Buddha’sense;

who by the intensity  of his insight , consumes the views of his opponents as though they were fuel, and burns up the darkness in the minds of men ;

whose utterances of incomparable  wisdom, like a shower of arrows, disperse utterly the adversaries of life;

whose words  reign majestically over the three realms  of the world and over Buddhists and gods as well;

Afer making obeisance

I shall expound the verses of his treatise in correct, comprehensible statements, which will be free of vain argument, and lucid.

---

Origin, subject-matter and ultimate concern of Nagarjuna’s treatise
*

The great treatise we are to discuss is the one beginning ‘Not of themselselves, nor from the other, nor from both…”
We have to ask what is the origin, what the subject-matter and what the ultimate concern of this great treatise. In the Madhyamakavatara it was stated that the wisdom of a perfectly realized one has its origin in an intial vow of dedication issuing from universal compassion and graced with comprehenshion going beyond all duality. In this sense Nagarjuna, knowing unerringly how to teach transcendent insight (Prajnaparamita), developed this treatise out of compassion and for the enlightenment of others. So much can be said about its origin. “To command the hostile afflictions and to inure against the vicissitudes of life : a genuine treatise has a teaching that is a stronghold. These two qualities are not found in any other treatises”

Nagarjuna himself gives us a glimpse of the subject-matter and ultimate concern of the exhaustive treatise we are to discuss. With perfect and unerring clarity, having risen to a lofty height of mind, and desiring to honour, by a treatise, the supreme teacher, the perfectly realized one who is inseparable from the existence and truth of a lofty height of mind, he says

Neither perishing nor arising in time, neither terminable nor eternal,

Neither self-identical nor variant in form, neither coming nor going;

Such is the true way of things (pratityasamutpada; dependent origination), the serene coming to rest of the manifold of named things,

As taught by the perfectly enlightened one whom I honour as the best of all teachers.

The true way of things [dependent origination], as characterized by the eight terms, “neither perishing nor arising” and so on, is the subject-matter of this treatise.

The ultimate concern of the treatise is clearly stated to be ‘nirvana’ : the serene coming to rest of the manifold of all named things ( sarvaprapancopasama) .

The salution is given in the words “I honour the best of all teachers”  

--------

Chú thích:

Thưa quý độc giả

Minh Cú Luận của ngài Nguyệt Xứng, bản Sankrit có lẽ khoảng 700 trang. Trong bản dịch Anh ngữ của Mervyn Sprung (1979), dài 264 trang, có ghi rõ các trang, các đoạn được dịch sang Anh ngữ. Có lẽ chỉ dịch 2/ 5 tác phẩm.  

Vì bản dịch Anh lược nhiều đoạn, nên bản dịch Việt bài này chỉ có 3 trang. Kính giới thiệu qúy độc giả 2 Phụ Bản, để có thể hiểu thêm về Trung LuậnMinh Cú Luận. Kính . ĐHP

----------

Cách dịch:

"whose utterances of incomparable wisdom, like a shower of arrows, disperse utterly the adversaries of life;"
Tôi dịch sơ thảo như sau:
" các phát biểu của trí tuệ vô thượng của ngài, giống như muôn vàn các bảng chỉ đường, làm tan tác hoàn toàn các đối nghịch của đời sống; "

Bạn ạ, đại khái, trong Anh ngữ, shower cũng là nhiều, arrows cũng là các ký hiệu. Trong phật học thì arrow cũng là mũi tên, mũi tên giác, nhắm hồng tâm giác.

*** 
edit lần 1 thành câu văn mới :
"các pháp thoại của ngài về trí tuệ siêu việt, giống như muôn vàn các bảng chỉ con đường tỉnh biết, giải tán hoàn toàn các đối nghịch với đời sống;

edit lần 2 , sáng 8.1. 2016

"các pháp thoại của ngài về trí tuệ siêu việt, giống như vô số nêu và đích của con đường tỉnh biết (tiêu chuẩn của hồng tâm giác), giải tán hoàn toàn các đối nghịch với đời sống;

tiêu chuẩn: nêu và đích(Việt Nam Tự Điển. Ban Văn Học Hội Khai Trí Tiến Đức) 
--
Vui vui vì dịch xong được ý ' a shower of arrows ' nói trong Kính lễ của ngài Nguyệt Xứng gửi tới ngài Long Thọ.
Kính lễ của ngài Nguyệt Xứng gửi tới Ngài Long Thọ thật là tuyệt vời -- giúp ta tỉnh biết và lý hội thông hiểu tương quan giữa ta với cuộc đời.

-------

Phụ Bản 1

Long Thọ. Tụng mở đầu Trung luận

Ngài Long Thọ nói về Lý tính Duyên khởi

Bồ-tát Long-thọ kính lễ Đức Phật giảng pháp nhân duyên trong Tụng mở đầu Trung luận:

Bản dịch Việt (ĐHP), theo bản Anh của K.K. Inada:

*

Tôi kính lễ Đức Phật

Đạo sư tối thượng đã dạy

Lý tính Duyên khởi

Tịch diệt đại lạc của các cấu trúc của tưởng

Trong đó mỗi pháp đều có tướng trạng

chẳng sinh, chẳng diệt,

chẳng đoạn, chẳng thường,

chẳng một, chẳng khác,

chẳng đến (với hiện hữu), chẳng đi (khỏi hiện hữu)

*

I pay homage to the Fully Awakened One,

the supreme teacher who has taught

the doctrine of relational origination,

the blissful cessation of all phenomenal thought constructions.

(Therein, every event is “marked” by):

non-origination, non-extinction ,

non-destruction, non-permanence,

non-identity, non-differentiation,

non-coming (into being), non-going (out of being).

(Nagarjuna: Kenneth K. Inada, 1993)

-----------------------

Bản dịch Việt (ĐHP) theo bản Anh của Louis de La Vallé Poussin, 1970.

*

Kính lễ

Tôi kính lễ Đức Phật, Đạo sư Vô Thượng,

Ngài dạy giải thoát, tĩnh chỉ của các hiện tượng,

duyên khởi là;

chẳng diệt, chẳng sinh, chẳng đoạn, chẳng thường,

chẳng một, chẳng khác, chẳng đến, chẳng đi.

*

Dedication

I greet the best of teachers, that Awakened One,

who taught liberation, the quieting of phenomena,

interdependent origination which is;

nonceasing and nonarising, nonmomentary and nonpermanent,

nonidentical and nondifferent, noncoming and nongoing

--------------

Bản dịch Việt (ĐHP) dịch từ bản dịch Anh của Geshe Ngawang Samten và J.L. Garfield (2006):

*

Tôi kính lễ đức Phật toàn giác

Vị thầy tối thắng trong các vị thầy, ngài đã dạy rằng

Cái gì do duyên khởi

Không diệt, không sinh

Không đoạn, không thường

Không đến, không đi

Không khác, không một

tịch tĩnh -- cách tuyệt cấu trúc của tưởng.

*

I prostrate to the perfect Buddha,

The best of all teachers, who taught that

That which is dependent origination is

Without cessation, without arising;

Without annihilation, without permanence;

Without coming, without going;

Without distinction, without identity

And peaceful – free from fabrication.

Bản Anh trích từ trang 24 -- RJE TSONG KHAPA. Ocean of Reasoning. A great Commentary on Nagarjuna’s Mulamadhyamakakarika. Translated by Geshe Ngawang Samten and J.L. Garfield.( Oxford,2006)

(RJE Tsong Khapa. Đại hải của Suy lí. Đại luận giải về Căn bản Trung luận tụng của Ngài Long Thọ)

-------------------

 Bài tụng trích từ bản “Trung luận. Thanh Mục thích”, bản Hán dịch của Ngài Cưu ma-la-thập, bản dịch Việt của Thích Thiện Siêu (2001) :

*

Chẳng sinh cũng chẳng diệt

Chẳng thường cũng chẳng đoạn

Chẳng một cũng chẳng khác

Chẳng đến cũng chẳng đi

*

Nói lên được pháp nhân duyên ấy

Khéo diệt trừ các thứ hý luận

Tôi cúi đầu kính lễ Phật, đã thuyết,

Nhân duyên cao nhất trong các thuyết.

Ngài Thanh-Mục viết:  Với hai bài kệ tán thán Phật này là đã nói tóm tắt Đệ Nhất nghĩa đế.  (Trung luận- Thanh -Mục thích ; Bản dịch Thích Thiện Siêu)

-------------

Phụ Bản 2

Tsong Khapa. Giải thích Trung Luận

Bài tụng kính lễ mở đầu Trung Luận (Bài 2)

(Lược trích)

2.1 Ca ngợi Đức Phật về giảng dạy duyên khởi cách tuyệt các cực đoan.

Phần này có hai phần: ý nghĩa tổng quát và chủ điểm hỗ trợ.

2.1.1  Ý nghĩa tổng quát

Phần này có ba phần: Phát biểu này có nội dung, mục đíchmục đích tối hậu, của bộ luận và sự quan liên của chúng với mỗi cái khác - như thế nào; căn bản sở hữu tám thuộc tính; và sự luận bác các biện bác của các kẻ khác.

2.1.1.1  Phát biểu ca ngợi này chứa nội dung, mục đích, và mục đích tối hậu của bộ luận và sự quan liên của chúng tới mỗi cái khác -- như thế nào 

Tôi kính lễ đức Phật toàn giác

Vị thầy tối thắng trong các vị thầy, ngài đã dạy rằng

Cái gì do duyên khởi

Không diệt, không sinh

Không đoạn, không thường

Không đến, không đi

Không khác, không một

tịch tĩnh -- cách tuyệt cấu trúc của tưởng.

Ngài Long Thọ, diễn tả sự vĩ đại của vị đạo sư về giảng dạy không sai lạc, toàn thể nội dung của bộ luận sắp được trình bày, ý định kính lễ Đức Phật về giảng dạy nội dung không thể li cách với tinh yếu của duyên khởi và nói “Tôi kính lễ…” v.v…để có thể viết bộ luận. Ở đây, duyên khởi được tướng trạng hoá bởi tám thuộc tính “không diệt”, v.v… là nội dung của Trung Luận. Sự giải thoát được tướng trạng hoá bởi tịch tĩnhtự do cách tuyệt tất cả sự cấu trúc của tưởng là mục đích tối hậu. (The liberation characterized by peace and freedom from all fabrication is the ultimate purpose). Trong Minh Cú Luận (Prasannapada) ngài Nguyệt Xứng nói là các bài tụng kính lễ khai mở nội dung và mục đích tối hậu của bộ luận. Đây là vì phát biểu này trình bày duyên khởisở hữu tám thuộc tính và giải thoáttự do cách tuyệt cấu trúc của tưởng. Tuy nhiên ngài không cho rằng tụng này  biểu thị rằng đây là nội dung và mục đích tối hậu của bộ luận bởi vì nói “ Bất cứ cái gì … tự do cách tuyệt cấu trúc của tưởng” nghĩa là  khẳng định đơn giản rằng Đức Phật đã dạy điều này. Mục đích của bộ luận là sẽ xoá bỏ các hoài nghi, thông hiểu sai lạc, và các lỗi lầm về tri nhận, ghi nhận sai các ý nghĩa đứng riêng biệt nhau (respective meanings) của các giáo pháp liễu nghĩa (ý nghĩa quyết định) và bất liễu nghĩa (ý nghĩa có thể diễn dịch), và cung cấp phương tiện hữu hiệu làm cho (enable) độc giả lãnh hội chúng một cách đúng đắn. Nội dung của bản văn thì được trình bày cho mục đích này. Sự tùy thuộc của mục đích trên bộ luận và sự tùy thuộc của mục đích tối hậu trên mục đích của bộ luận là sự quan liên không được thảo luận rõ ràng, dầu nó được ám chỉ.

Minh cú luận, giải thích về “tịch tĩnh -- tự do cách tuyệt cấu trúc của tưởng” nói:

< Khi bạn tri nhận thật tướng của duyên khởi, không có sự tham dự của tâm hoặc các tiến trình tinh thần/tâm ý.>

Sự tham dự trong ngữ cảnh này, theo Nhập Trung Đạo Giải Thích của Nguyệt Xứng (Madhyamakavatara-bhasya) là sự lang thang vì nó được nói rằng sự lang thang của tâm và các các biến cố tinh thần (mental episodes) thì bị chấm dứt. Minh Cú luận nói trong lãnh vực này:

“ Bởi vì tâm niệm phân biệt (conceptual thought) là sự lang thang của tâm, thật tướng của các sự vật, là tự do cách tuyệt điều đó (= lang thang của tâm), thì không bị tâm niệm phân biệt hoá (conceptualized). Kinh nói rằng, “Chân lí tối hậu là gì? Nơi không có sự lang thang của tâm không có nhu cầu nói về các lời” (Bồ tát tạng kinh; Bodhisattvapitaka-sutra).”

“Since conceptual thought is the wandering of mind, the way things really are, being free from that , is not conceptualized. Sutra says, “What is the ultimate truth? Where there is no wandering of mind there is no need to talk about words.”

Khi ngài Nguyệt Xứng trích dẫn kinh này ngài không định nói rằng không có tuệ quán (insight), nhưng thay vào đó biểu thị rằng sự lang thang của tâm niệm phân biệt chấm dứt. Ý nghĩa của phát biểu này rằng sự giả danh quy ước thế tục của chủ thể và đối tượng chấm dứt là rằng sự giả danh của chủ thể và đối tượng chấm dứt từ toàn cảnh khách quan của định tâm (the perspective of meditative equipoise), nhưng nó không có nghĩa rằng tuệ quán trong định tâmchân lí tối hậu bị bác bỏ trong vai trò chủ thể và đối tượng. Đây là bởi vì chúng là chủ thể và đối tượng thì không được thừa nhận là đúng (posited) từ toàn cảnh khách quan của tuệ quán phân tích, nhưng từ toàn cảnh khách quan của thông hiểu quy ước thế tục.

(As he quotes this sutra he does not mean that there is no insight, but instead demonstrates that the wandering of conceptual thought stops. The meaning of the statement that the conventional designation of subject and object stops is that the designation of these two stops from the  perspective of meditative equipoise, but it does not mean that the insight in meditative equipoise and the ultimate truth are rejected as subject and object. This is because their being subject and object is not posited from the perspective of analysis insight , but from the perspective of conventional understanding.)

Khi hai toàn cảnh khách quan này được phân biệt, nhiều hoài nghi tương tự như thế sẽ được loại bỏ. Giả sử có ai đó hỏi, “trong hệ thống những người chủ trương rằng cả hai các vị thanh văn và các vị độc giác phật đều thật chứng cả hai vô ngã, [vậy thì] nội dung, các mục đích của bộ luận, và các sự quan liên tới mỗi cái khác như được giảng giải chi tiết trong Minh Cú luận sẽ có thể áp dụng cho cả hai tiểu thừađại thừa.  Thế nên, có phải là thính chúng của bản văn này tổng quát, gồm cả những người thuộc cả hai thừa?  Nhập Trung Đạo Giải Thích của Nguyệt Xứng (Madhyamakavatara-bhasya) nói rằng sự vô ngã của các hiện tượng được trình bày vắn tắt trong các giáo pháp của tiểu thừa, nhưng nó được trình bày sâu rộng trong các giáo pháp của đại thừa. Thế nên, để chứng minh rằng các giáo pháp của đại thừa [về vô ngã của của các hiện tượng] không dư thừa không cần đến nữa (not redundant) ngài trích dẫn từ Xuất Thế Gian Tụng của Long Thọ (Lokatitastava) [Ca tụng Đức Phật Xuất Thế Gian]:

< Đức Phật nói rằng không có giải thoát

Chừng nào sự vô ngã không được thật chứng

Thế nên, ngài trình bày vô ngã

Trong toàn thể trong đại thừa   [Tụng 27] >

Thế nên, trong bộ luận này không có đặc điểm nào của giáo pháp đại thừa được nói đến ngoại trừ tri kiến tính không. Tuy nhiên, bởi vì nó giải thích chi tiết một cách sâu rộng vô ngã của các hiện tượng nên có một sự khác biệt trong thính chúng được dự định (intended audience). Minh cú luận cũng đề cập đến sự hoàn toàn chẳng có đau khổ giống như sinh và chết là ý nghĩa của “tịch tĩnh”

2.1.1.2  Cách nào căn bản sở hữu tám thuộc tính

Ở đây trong ngữ cảnh này, Minh cú luận nói, duyên khởi, được quy chỉ là căn bản, là duyên khởi của các hiện tượng hữu vi (hiện tượng được tạo tác) (compounded phenomena). “tiếp xúc”, “tùy thuộc” “nương nhờ” (contact, dependence, reliance) được nói là đều đồng nghĩa. Ý nghĩa từ nguyên của “tùy thuộc” (dependent) thì có thể áp dụng cho mỗi hiện tượng. “Khởi” (Origination) có hai nghĩa. “Phát ra”  (generation) thì không thể áp dụng được cho các cái khác ngoài các hiện tượng hữu vi; tuy nhiên “bắt đầu duyên hội xảy ra”  (coming into existence dependently) là được trình bày là ý nghĩa của “khởi” (origination) trong các đoạn văn tỉ dụ:

< Tác giả tùy thuộc vào hành nghiệp,

Hành nghiệp cũng tùy thuộc tác giả.

Ngoại trừ duyên khởi

Bạn không thể thấy bất cứ nguyên nhân nào cho hiện hữu của chúng >

(Trung Luận VIII: 12)

Mặc dầu điều này nói rằng tác giả hiện hữu tùy thuộc vào hành nghiệp (action), hành nghiệp không là chủ thể tạo tác/năng tạo của tác giả (the producer of the agent). Lí luận này được áp dụng với các hiện tượng khác -- chủ thể biết và cái được biết (năng tri và sở tri; knower and known) và luận đề và luận chứng (thesis and proof) được nói là sinh khởi tương liên tùy thuộc (interdependently arisen) -- những cái này không thể là chủ thể tạo tác của cái khác. Vòng hoa báu của Long Thọ (Ratnavali) nói:

< Khi có đây, kia sinh khởi

Cũng như khi có ngắn, có dài (Tụng I:48 ab) >

Dầu nói điều đó, ngắn không là chủ thể tạo tác của dài. Bất cứ gì được sinh khởi tùy thuộc vào các nhân và các duyên của nó phải là một sự vật, ngoại trừ sự diệt tận (cessation). Dầu các “hiện tượng do duyên khởi khác với những điều này” sinh khởi tùy thuộc vào các cái khác, các sự vật mà chúng tuỳ thuộc không phải là các nhân và các duyên của chúng. Chỉ vào lúc đó đoạn văn này mới có thể được trích dẫn một cách thích hợp:

< Không có hiện hữu bất cứ một cái gì,

Là cái không do duyên khởi.

Thế nên không hiện hữu bất cứ cái gì

Là cái chẳng không (=bất không)   (XXIV:19) >

Vì tám thuộc tính -- diệt, sinh, v.v., hiện hữu theo quy ước thế tục, chúng không thể bị luận bác mà không được cung cấp một mệnh đề tu chính (modifying phrase).Trong ngữ cảnh này, Minh cú luận nói rằng mệnh đề tu chínhtheo cái nhìn trí tuệ siêu việt bất cứ cái gì tỉ như diệt tận thì không hiện hữu [nghĩa là bất cứ cái gì diệt /sinh /đoạn / thường / đến / đi / một / khác thì không hiện hữu. ĐHP].

(Since the eight -- cessation, etc, -- exist conventionally, they cannot be refuted without supplying a modifying phrase. In this context, Prasannapada says that the modifying phrase is in accordance with the exalted wisdom in terms of which such things as cessation do not exist)

[such things etc as … (formal) = any/whatever things etc (that)…] 

 Trong một ngữ cảnh về sau, Minh cú luận nói:

< Nó không hoà hợp với bản chất của đối tượng của một trí tuệ siêu việt không bị nhơ nhuốm cách tuyệt với sương mù của vô minh.>

Như vậy ngài Nguyệt Xứng quy chiếu tới trí tuệ siêu việt cách tuyệt sự nhơ nhuốm của các huyễn tượng của hiện tướng nhị nguyên đối đãi. Thế nên, bạn nên xem xét duyên khởi, nó có diệt, v.v., là căn bản, và làm như thế, bạn nên xem xét các thuộc tính tu chỉnh được áp dụng cho nó là tám phẩm  tính -- sự phi hữu của diệt tận (= bất diệt), v.v. --  hoà hợp với bản chất của đối tượng của trí tuệ siêu việt không bị nhơ nhuốm của định tâm.

(Thus he refers to the wisdom free from the contamination of illusions of dualistic appearance.Therefore, one should consider dependent origination, which has cessation, etc., as the basis, and, having done so, one should consider the modifying attributes applied to it to be the eight qualities -- the nonexistence of cessation, etc. -- in accordance with the nature of the object of the uncontaminated wisdom of meditative equipoise).  
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3498)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 7356)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4525)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4580)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7353)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2973)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12225)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 4004)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3814)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4231)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3691)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5072)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6697)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4014)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4131)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5348)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3793)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4540)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3562)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3936)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4397)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5397)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3849)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3942)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3880)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4832)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4531)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4272)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3846)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4648)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4214)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6121)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4613)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4957)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4198)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4837)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5673)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3657)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4056)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4596)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5294)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3151)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4768)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4564)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4304)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4751)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4499)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4609)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7233)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5217)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5011)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4602)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5621)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5282)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4165)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6024)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4723)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4886)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5496)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5626)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant