Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bản Dịch Việt 12 Kệ Tụng Quán Mười Hai Chi Của Duyên Khởi

17 Tháng Giêng 201614:41(Xem: 8163)
Bản Dịch Việt 12 Kệ Tụng Quán Mười Hai Chi Của Duyên Khởi

BẢN DỊCH VIỆT 12 KỆ TỤNG
QUÁN MƯỜI HAI CHI CỦA DUYÊN KHỞI

(Bản dịch Cưu-Ma-La-Thập thu gọn thành 9 kệ tụng)

Bản dịch Việt:  Đặng Hữu Phúc


Bản Dịch Việt 12 Kệ Tụng Quán Mười Hai Chi Của Duyên Khởi


Tụng 1.

Do vô minh che lấp,
chúng sinh tạo ba hành,
nên theo ba hành nghiệp (thân, ngữ, tâm)
vào luân hồi sáu cõi.

*

Tụng 2

Ba hành nghiệp quá khứ,
duyên thức đi sáu cõi.
Ở nơi thức an lập,
danh và sắc tăng trưởng.

*

Tụng 3

Danh và sắc tăng trưởng,
làm duyên sinh sáu xứ.
sáu xứ làm duyên,
nên sáu xúc sinh khởi.

*

Tụng 4

Mắt làm duyên cho sắc,
và thấy sắc trong tâm;
Cũng vậy, thức làm duyên,
danh và sắc sinh khởi.

*

Tụng 5

Khi mắt, sắc và thức
hội tụ gọi là xúc.
sáu xúc làm duyên,
thế nên thọ sinh khởi.

*

Tụng 6

Thọ làm duyên, ái sinh
theo đối tượng của thọ.
Ái làm duyên cho thủ,
bốn loại thủ hiện diện.

*

Tụng 7

Khi có thủ: có hữu
của kẻ thủ sinh khởi.
Không thủ: sẽ giải thoát
vì sẽ không có hữu.

*

Tụng 8

Hữu này là năm uẩn.
Từ hữu nên có sinh.
Già và chết, và sầu,
bi, khổ, và vân vân,

*

Tụng 9

cộng thêm ưu, não:
chúng đều đến từ sinh.
Những gì sinh khởi
khổ gắn vào năm uẩn.

*

Tụng 10

Gốc sinh tử: hành nghiệp.
Kẻ vô minh: tác giả.
Kẻ trí thấy pháp tính
và không là tác giả.

*

Tụng 11

Khi vô minh diệt tận,
hành nghiệp không sinh khởi.
Vô minh diệt do tuệ
và thiền Lý duyên khởi.

*

Tụng 12.

Chi vô minh này diệt,
nên chi sau cũng diệt,
mỗi chi làm sao sinh?
Nên khổ năm uẩn diệt.

---------------

Chú thích 1

Bản dịch Việt, Trung Luận, chương XXVI, căn cứ vào 5 bản dịch dưới đây:

1. Bản dịch Thupten Jinpa (2009) (dịch từ Tạng-Anh) trong The Dalai Lama . The Middle Way. Faith grounded in Reason. 2009

2. Bản dịch Ngawang Samten & Garfield (2006) (dịch từ Tạng- Anh). trong Tsong Khapa . Ocean of Reasoning. 12006

3. Bản dịch Sanskrit- English của K.K. Inada (1970, reprinted 1993)

4. Bản dịch Sanskrit – English của Louis de La Vallé Poussin 1970

5. Bản Trung luận thích—Thanh Mục, do La Thập dịch Hán, và Thiện Siêu dịch Việt (2001).

[1] Bản dịch Tibetan- English
The Dalai Lama. The Middle Way. Faith grounded in Reason. Translated by Thupten Jinpa. (2009)

1. Obscured by ignorance and for the sake of rebirth we create the three kinds of action; it is these actions constructing [existence] that propel us through transmigration.

2. With volition as its condition, consciousness enters transmigation.

Once conscious has entered, name and form come to be.

3. Once name and form have developed, the six sense spheres come into being.

Depending on the six sense spheres, contact come into being.

4. It arises only in dependence on eye, form, and apprehension; thus, in dependence on name and form, consciousness arises.

5. The convergence of the three - eye, form, and consciousness – this is contact; from contact feeling comes into being.

6. Conditioned by feeling is craving; one craves because of feeling;

When one craves, there is grasping; the four kinds of grasping [take place].

7. Where there is grasping, the becoming of the grasper thoroughly comes to be.

Were there no grasping, being free, there would be no becoming.

8. This becoming is also the five aggregates, and from becoming emerges birth. Aging, death, and sorrow, grief, suffering, and so on,

9. As well as unhappiness and agitation: these come from birth. What comes into being is only a mass of suffering.

10. The root of cyclic existence is action; therefore, the wise do not act. The unwise one is an agent; the wise one is an agent; the wise one, seeing suchness, is not.

11. When ignorance has ceased, action will not arise. Ignorance ceases through insight into meditation on suchness.

12. Through the cessation of this and that, this and that do not manifest; in this way the entire mass of suffering ceases completely.

________________________________

[2] Bản dịch Tibetan - English
Trích từ: Rje Tsong Khapa. Ocean of Reasoning.
Translated by Geshe Ngawang Samten and Jay. L. Garfield. (2006)

1. The three kinds of actions that lead to rebirth,

Performed by one obscured by ignorance,

Are the karma that impel one

To further transmigration.

2. Having action as its conditions,

Consciousness enters transmigration.

One consciousness has entered transmigration,

Name and form come to be.

3. Once name and form come to be,

The six senses come into being.

Depending on the six senses,

Contact comes into being.

4. That is only dependent

On eye and form and retention.

Thus depending on name and form,

Consciousness arises.

5. That which is assembled from the three –

Eye, and form and consciousness –

Is contact. From contact

Feeling comes to be.

6. Conditioned by feeling is craving.

Craving arises for feeling.

When one craves,

The four objects of appropriation will be appropriated.

7. When there is appropriation,

The existence of the appropriator arises.

If he did not appropriate,

Then being freed, he would not come into existence.

8. This existence is also the five aggregates.

From existence comes birth,

Old age, and death and misery and

Suffering and lamentation…

9. Unhappiness and agitation.

All these arise as a consequence of birth.

Thus what comes into being

Is only a mass of suffering.

10. The root of cyclic existence is action.

Therefore, the wise one does not act.

Therefore the unwise is the agent.

The wise one is not, because he sees reality.

11. With the cessation of ignorance,

Action will not arise.

The cessation of ignorance occurs through

Exercising wisdom in meditating on this.

12. Through the cessation of this and that,

This and that will not be manifest.

That which is only a mass of suffering

Will thus completely cease.

Note: Having abandoning ignorance, action will have ceased. Similarly, through the cessation of the earlier limbs – the “this and that”—the later limbs—“this and that”—will not arise.

____________________

[3] Bản dịch Sanskrit-English: K.K. Inada:
Chapter XXVI. Examination of the Twelvefold Causal Analysis of Being
Translated by K.K. Inada

1. Those who are deluded by ignorance create their own threefold mental conformations in order to cause rebirth and by their deeds go through the various forms of life.

Note: The three fold mental conformations refer to those related to the body, speech  and mind.

The various forms of life refer to the following: hellish beings, hungry spirits, beats, evil spirits, human beings and heavenly beings.

2. The consciousness (vijnana), conditioned by the mental conformations, establishes itself with respect to the various forms of life. When the consciousness is established, name (nama) and form (rupa) are infused or become apparent.

3. When name and form are infused or become apparent the six ayatanas (i.e. seats of perception) arise. With the rise of six ayatanas, touch evolves.

4. As in the composite relation nature of the eye and its material  form, consciousness arises in a similar relational nature of name and form.

5. The harmonious triadic nature of form, consciousness and eye issues forth touch. And from the touch arises feeling.

6. Relationally conditioned by feeling, craving arises because it “thirsts after” the object of feeling. In the process of craving, the fourfold clinging are seized.

Note: Reference to clinging of passions, dogmatic views, rigid rules of conduct, and selfhood (kama, drsti, sila, atman)

7. When there is clinging perception, the perceiver generates being (bhava) .When there is no clinging perception, he will be freed and there will be no being.

8. Being is (always in reference to) the five skandhas and from being birth arises. Old age - death, suffering, etc., misery, grief….(continues to next verse.)

9. ….despair and mental disturbance arise from birth. In this manner the simple suffering attached to the skandhas comes into being.

10. Consequently, the ignorant creates the mental conformations which form the basis of samsaric life. Thus the ignorant is the doer while the wise, seeing the truth (tattva), does not create.

11. When ignorance is banished mental conformations do not arise. But the extinction of ignorance is dependent upon the wisdom of practicing (the cessation of the twelvefold causal analysis of being).

12. By the cessation of the various links of the causal analysis, each and every subsequent link will not arise (i.e. become a hindrance). And thus this simple suffering attached to the skandhas is rightfully extinguished.

 ---------------

[4] Bản dịch  Sanskrit-English
XXVI. Analysis of the Twelvefold Chain of Interdependent Origination.
Translated by Louis de La Vallé Poussin

*

1. Three dispositions leading to rebirth are formed by

unexplained ignorance which moves by means of those actions.

2. Consciousness is connected  with past disposition and conditioning.

Wherein consciousness deeply enters, name and form [mind/body] is infused.

3. Where name and form is infused, six sense - spheres arise.

The six senses having arrived, contact comes forth.

4. Form and attention are dependent on the eye.

Name and form is dependent on consciousness coming forth.

5. The conjunction of the three, which are eye, consciousness, and form, is contact. And from contact, feeling comes forth.

6. Craving is conditioned by feeling, indeed, craves  because of feeling.

He is laid hold of by grasping fourfold craving.

7. Where grasping exists, the being who grasps is set in motion.

Indeed, if there would be no grasping, he would be released and there would be no being [who grasps].

8. He, the being, is five skandhas and from being, rebirth is set in motion, together with lamentations, afflictions, suffering, etc …, old age and death.

9. Together with despair, all this set in motion from birth.

Thus is the origin of this entire mass of suffering.

10. Hence the ignorant compose dispositions, the roots of samsara.

Therefore, the ignorant create while the wise, seeing reality, do not.

11. Since the destruction of dispositions is the cessation of ignorance,

cessation of ignorance is from the practice based on knowledge.

12. With the cessation of [ignorance], which [link on the causal chain] advance to what [next link]?

Thus the entire mass of suffering is rightly ceased.

------------

[5] Bản dịch Phạn- Hán của Ngài Cưu Ma La Thập
(Ngài thu gọn 12 bài tụng thành 9 bài)
Chương XXVI Quán thập nhị nhân duyên

*

1. Chúng sinh si sở phục
vi hậu khởi tam hành
dĩ khởi thị hành cố
tùy hành nhập lục thú.

*

2. Dĩ chư hành nhân duyên
thức thọ lục đạo thân
hữu thức trước cố
tăng trưởng ư danh sắc.

*

3. Danh sắc tăng trưởng cố
nhân nhi sinh lục nhập
tình trần thức hoà hợp
dĩ xưng ư lục xúc.

*

4. Nhân ư lục xúc cố
tức sinh ư tam thọ
dĩ nhân tam thọ cố
nhi sinh ư khát ái.

*

5. Nhân ái hữu tứ thủ
nhân thủ cố hữu hữu
nhược thủ giả bất thủ
tắc giải thoát vô hữu.

*

6. Tòng hữu nhi hữu sinh
tòng sinh hữu lão tử
tòng lão tử cố hữu
ưu bi chư khổ não.

*

7. Như thị đẳng chư sự
giai tòng sanh nhi hữu
đản dĩ thị nhân duyên
nhi tập đại khổ ấm.

*

8. Thị vị vi sinh tử
chư hành chi căn bản
vô minh chư sở tạo
trí giả sở bất vi.

*

9. Dĩ thị sự diệt cố
thị sự tắc bất sinh
đản thị khổ ấm tụ
như thị nhi chính diệt.

-----------------------

TRUNG LUẬN 
Bản dịch Việt:  HT Thích Thiện Siêu . 2001

1.  Chúng sinh bị ngu si che lấp, làm khởi lên ba hành nghiệp, vì khởi lên hành nghiệp ấy, nên phải theo hành nghiệpđi vào sáu nẻo.

2.  Vì nhân duyên của các hành nghiệp, nên nghiệp thức phải chịu mang thân trong sáu nẻo, vì có thức đắm trước nên làm tăng trưởng danh và sắc.

3.  Do danh, sắc tăng trưởng, nên sinh ra sáu nhập, sáu căn, sáu trần và sáu thức hòa hợp mà sinh ra sáu xúc.

4.  Nhân sáu xúc liền sinh ra ba thọ, nhân ba thọ mà sinh ra khát ái .

5.  Nhân khát ái mà có bốn thủ, nhân thủ mà có hữu, nếu người chấp thủkhông chấp thủ, thời được giải thoát không có hữu.

6.  Do hữu mà có sinh, do sinh mà có già chết, do già chết nên có các khổ não buồn lo.

7.  Các việc như vậy đều do sinh mà có, chỉ vì nhân duyên ấy mà tập thành thân ngũ uẩn đại khổ.

8.  Như thế gọi là sinh tử, do các hành nghiệp làm cội gốc, người vô minh gây tạo, còn người trí thì không làm.

9.  Do sự này diệt, nên sự kia không sinh; chỉ khi nào thân năm uẩn đau khổ được tịch diệt không sinh, như vậy mới là thật diệt.

---

Chú thích 2

Các bài về Mười hai chi của Duyên khởi

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12646)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12262)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11039)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10917)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13372)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11791)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13671)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11912)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11179)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12207)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12412)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20604)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12434)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12464)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11725)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11602)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22436)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13584)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29692)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11549)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16752)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12006)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16850)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12083)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17932)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12653)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13177)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14771)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22634)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10594)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14053)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13875)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13721)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13874)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13947)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14839)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13859)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18423)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22810)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15402)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17329)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22420)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14269)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12592)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11176)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17777)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13217)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13114)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18803)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17184)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13510)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12925)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14704)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14662)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15882)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13523)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27444)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13244)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16733)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21400)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant