Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Các Thuyết Phục Chính Yếu Về Tôn GiáoTriết Học Của Ngài Long Thọ

18 Tháng Giêng 201608:40(Xem: 9792)
Các Thuyết Phục Chính Yếu Về Tôn Giáo Và Triết Học Của Ngài Long Thọ
CÁC THUYẾT PHỤC CHÍNH YẾU VỀ

TÔN GIÁOTRIẾT HỌC CỦA NGÀI LONG THỌ

Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc  

Bản Anh: Master of Wisdom. Writings of the Buddhist Master Nagarjuna.
Translations and Studies by Chr. Lindtner.
Dharma Publishing. California, 1986, 1997. (trích dịch từ Introduction)

Các Thuyết Phục Chính Yếu Về Tôn Giáo Và Triết Học Của Ngài Long Thọ

Để giúp độc giả, tôi sẽ trình bày một bản tổng hợp giáo lý của các thuyết phục chính yếu về tôn giáotriết học của ngài Long Thọ .

Điểm xuất phát tốt nhất cho bản giải thích học thuyếtlý thuyết về nhị đế (satyadvaya): một chân lý quy ước thế tục (samvrtisatya) phục vụ như một phương pháp hữu hiệu để đạt đến chân lý tối hậu (paramarthasatya).

Chân lý tối hậu của tất cả các tinh tấn nỗ lực là sự toàn hảo cao nhất cho chính mình và cho các kẻ khác: chấm dứt hoàn toàn sự tái sinh, hoặc niết bàn. Nó hàm ý sự thành tựu trạng thái Phật, hoặc hai thân -- sắc thânpháp thân. Sắc Thân của một vị Phật sinh khởi từ các tích tập phúc đức; và  Pháp Thân, sinh khởi từ các tích tập trí tuệ. (Ratnavali III.12, 13).

Điểm này có thể được xem xét từ bốn toàn cảnh khách quan:

1. Về phương diện bản thể học:

Tất cả các hiện tượng (dharma; pháp) đều rỗng thông / chân không diệu hữu (sunya; empty) bởi vì chúng không có hiện hữu tự tính (svabhava; own-being), ít nhất là vì trên phương diện thực nghiệm và luận lý chúng chỉ xảy ra trong sự tùy thuộc hỗ tương (MK. XXIV, 18).

2. Về phương diện nhận thức luận:

Chân lý tối hậu (tattva) là đối tượng của trí tuệ bất nhị (advayajnana; cognition without an object) (MK. XXV, 24), và như vậy chỉ là một đối tượng thi thiết / giả danh / nói trên phương diện ẩn dụ (upadaya prajnapti; metaphorically speaking; thi thiết; giả danh) (MK. XXII, 11; MK. XXIV, 18).

3. Về phương diện tâm lý:

nó là sự xoá bỏ tất cả các phiền não (klesas; passions), về căn bản là tham (raga; desire), sân (dvesa; hatred), và si ( moha; delusion) (MK. XXVIII, 5; MK. XXV, 2)

4. Về phương diện đạo đức:

Nó hàm ý tự do không bị nô lệ về nghiệp nhưng vẫn tuân phục đối với các mệnh lệnh vị tha của đại bi (MK. XXVII, 30).

Các phương pháp Phật giáo hữu hiệu theo quy ước thế tục (samvyavahara) được đặt ra để hoàn thành mục tiêu này có thể được phân loại nhiều cách khác nhau, nhưng chính yếu, và dễ hiểu nhất là đặt dưới danh đề hai tích tập cho giác ngộ (bodhisambhara) (Ratnavali  III)

1. Tích tập về phúc đức.

Đây gồm bốn toàn hảo (paramita; perfections).

Bố thí / Sự hào hiệp /sự quảng đại và cao quý của tâm (Skt. dana; liberality ; generosity; largeness ; nobleness of mind) và giới hạnh / hạnh kiểm tốt (sila; morals), mà chúng chủ yếu là đem đến lợi ích cho các người khác, và an nhẫn (ksanti; patience) (Ratnavali . IV, 81, 99) và tinh tấn (virya; energy) mà chúng là tốt đẹp cho bản thân. (Ratnavali IV, 81).

Tu tập của họ  đòi hỏi trước hết tín tâm (sraddha; faith) vào ‘luật’ của nghiệp và kết quả trong sự thành tựu thân vật lý (rupakaya; sắc thân) của một vị Phật (Ratnavali I, 6 ; III, 12). Trên đường thiền định (dhyana; meditation), toàn hảo thứ năm, nó tạo lập hạnh phúc tạm thời. (Ratnavali I, 24; IV, 98; I, 4; III, 30)

2. Tích tập về trí tuệ .

Đây gồm có thiền đại lạc (dhyana; ecstatic meditation) được tăng thượng   bởi tuệ quán tính không của tất cả các hiện tượng, hoặc trí tuệ siêu việt . Đây là sự toàn hảo xác định (naihsreyasa; non plus ultra or ultimate good) của tất cả các hữu tình (Ratnavali, I, 4, 45; III, 30). Nó tăng thượng tới thành tựu Pháp thân . (Ratnavali III,12).

Nói một cách khác, trí tuệ về tính không và sự hiển hiện các hành hoạt đại bi là hai phương pháp hữu hiệu của một sự thật chứng giác ngộ -- đối với một nhóm nhỏ các cá nhân đã chọn lựa con đường tỉnh biết.

----------

INTRODUCTION

Long Thụ, còn gọi là Long Thọ[1] (zh. 龍樹; sa. nāgārjuna नागार्जुन; bo. klu sgrub ཀླུ་སྒྲུབ་), dịch âm là Na-già-át-thụ-na (zh. 那伽閼樹那), thế kỷ 1–2[2], là một trong những luận sư vĩ đại nhất của lịch sử Phật giáo. Người ta xem sự xuất hiện của Sư là lần chuyển pháp luân thứ hai của Phật giáo (lần thứ nhất do Phật Thích-ca Mâu-ni, lần thứ ba là sự xuất hiện của giáo pháp Đát-đặc-la). Đại thừa Ấn Độ xếp Sư vào "Sáu Bảo Trang của Ấn Độ" – năm vị khác là Thánh Thiên (sa. āryadeva), Vô Trước (sa. asaṅga), Thế Thân (sa. vasubandhu), Trần-na (sa. diṅnāga,dignāga), Pháp Xứng (sa. dharmakīrti). Trong tranh tượng, Sư là vị duy nhất sau Phật Thích-ca được trình bày với chóp trên đỉnh đầu (nhục kế 肉髻, sa. uṣṇīṣa), một dấu hiệu của một Đại nhân (sa. mahāpuruṣa). Sư là người sáng lập Trung quán tông (sa. mādhyamika), sống trong thế kỉ thứ 1–2. Có rất nhiều tác phẩm mang danh của Sư nhưng có lẽ được nhiều tác giả khác biên soạn. Sư cũng được xem là Tổ thứ 14 của Thiền tông Ấn Độ. Truyền thống Mật giáo cũng xếp Sư vào 84 vị Đại thành tựu (sa. mahāsiddha)
(Wikipedia)

……

…….

It will be convenient for the reader if  I provide a synthetic survey  (samksepa)  of Nagarjuna ‘s chief religious and philosophical persuasions.

The best starting point for such exposition is the theory of two truths (satyadvaya): a relative or conventional truth (samvrtisatya) that serves as the means for obtaining the absolute or ultimate truth ( paramarthasatya).

The ultimate goal of all endeavors is the highest good of oneself and of the others: abolition of rebirth, or nirvana. It implies the attainment of Buddhahood, or twofold body (kayadvaya).  The Form Body of a Buddha, arises from the collections of merits; and the Truth Body, arises from collections of wisdom. (Ratnavali III. 12, 13).

This may be considered from four perspectives:

Ontologically: All phenomena (dharma) are empty (sunya) since they lack own-being (svabhava), in asmuch as empirically and logically they only occur in mutual dependence ( pratityasamutpanna) (MK. XXIV, 18).

Epistemologically: The ultimate truth (tattva) is the object of a cognition without an object (advayajnanna) (MK. XXV, 24) and thus only an object metaphorically speaking (upadaya prajnapti). (MK. XXII, 11; MK. XXIV, 18).

Psychologically: It is the abolition of all the passions (klesas), primarily desire (raga), hatred (dvesa), and delusion (moha). (MK. XXVIII, 5; MK. XXV, 2)

Ethically: It implies freedom from the bond s of karma but subjection to the altruistic imperatives of compassion (karuna). (MK. XXVII, 30).

The conventional Buddhist means (samvyavahara)) devised for fulfillment of this objective may be classified variously, but fit most briefly and comprehensively under the heading of the two accumulations for enlightenment (bodhisambhara). (Ratnavali  III)

Accumulation of merit (punyasambhara). This comprises the four perfections (paramita): Liberality (dana) and good morals( sila), which are mainly for the benefit of others, and patience (ksanti) (Ratnavali . IV, 81, 99) and energy (virya), which are for one’sown good. (Ratnavali IV, 81).  There practice presupposes faith (sraddha) in the ‘law’ of karma and results in the attainment of the physical body (rupakaya) of a Buddha. (Ratnavali I, 6; III, 12). Along with the pursuit of meditation (dhyana), the fifth paramita, this constitutes temporal happiness ( abhyudaya). (Ratnavali I, 24; IV, 98; I, 4; III, 30)

Accumulation of cognition (jnanasambhara). This consists in ecstatic meditation (dhyana) surpassed by insight into the emptiness (suyanata) of all phenomena (dharmas), or wisdom (prajna). This is the non plus ultra or ultimate good (naihsreyasa) of all living beings (Ratnavali, I, 4, 45; III, 30). It amounts to the attainment of a ‘spiritual body’ (Dharmakaya). (Ratnavali III, 12).

In other words, cognition of emptiness and display of acts of compassion are -- to a chosen few -- the two means of realizing enlightenment.

--------------

Note: in as much as;  inasmuch as (formal):  taking into account the (limited) fact that :  You have to take some of the blame inasmuch as  you knew what  was going on and could have stopped it.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5105)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 7531)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 6419)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 6486)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 7545)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 4854)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 4863)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 5977)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 6798)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 5262)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 5035)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 6350)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 6959)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 5351)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 5996)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 6339)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 5186)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 5386)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 7087)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 6431)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 5262)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 4355)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 4500)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
(Xem: 4615)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 4804)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 5311)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 6100)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
(Xem: 7510)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 4093)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 8536)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 4747)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 4945)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 5259)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 5297)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 4980)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 6610)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 4210)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 7336)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 6158)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 5666)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 5176)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 6045)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 6945)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 5475)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 8929)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 5833)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 4913)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 4839)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 4603)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 8305)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 6743)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 5097)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 4341)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 5576)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 6547)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 8207)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 9084)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 5887)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 6280)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 6947)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
Quảng Cáo Bảo Trợ
AZCMENU Cloudbase: Giải pháp TV Menu thông minh, tiện lợi, chuyên nghiệp!
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM