Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Pháp - Tính Của Các Sự Vật

02 Tháng Hai 201610:16(Xem: 8424)
Pháp - Tính Của Các Sự Vật

Nguyệt Xứng
PHÁP - TÍNH CỦA CÁC SỰ VẬT

Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc


Bản dịch Anh: Candrakirti. Lucid Exposition of the Middle Way. The Essential Chapters from the Prasannapada of Candrakirti. Translated from the Sanskrit by Mervyn Sprung in collaboration with T.R.V. Murti and U.S. Vyas. Routledge, 1979. ( pp 182-184)

*

Nhưng, ông hỏi, bản chất của thật tướng của các sự vật mà các giáo pháp của chư Phật trực nhập là gì ? Điều này được giải thích trong kệ tụng XVIII. 7 “Khi chẳng có đối tượng của tâm, thì chẳng có gì để ngôn ngữ quy chỉ tới”. Khi chấp thuận điều này, có thể có thêm các câu hỏi không? Dù điều này là như vậy, tuy thế, vẫn phải nói về thật tướng của các sự vật. Điều này được thực hiện bằng cách nói với ý niệm thứ nhì [= ý niệm thiết lập lí thuyết để nói về chân lí] (samaropatah). Mọi người chấp thuận thuật ngữ thế tục “thật” và “không thật” và v.v.,  chúng đến từ các diễn từ nói viết theo chân lí quy ước thế tục (vyavaharasatya).

Ngài Long Thọ diễn tả nó theo cách này.

XVIII. 9  Không tùy thuộc vào bất kì cái gì, tịch tĩnh, không hiển lộ trong vai trò các sự vật được đặt tên, vượt ngoài cấu trúc của tưởng, không có các hình dáng biến đổi, như vậy là nói về thật tướng của các sự vật. [Bản dịch của Mervyn Sprung]

XVIII.9  Không quan liên tùy thuộc tới bất kì sự vật, tịch tĩnh, không bị ý niệm phân biệt hoá bởi trình diễn ý niệm phân biệt, không đối xử sai biệt, và không tạo thành sai biệt. Đây là các tướng trạng của pháp tính [= bản miêu tả về kẻ đạt chân lí Phật giáo] (tat tattvasya laksanam) [ Bản dịch của Kenneth K. Inada]

Không tùy thuộc vào bất kì cái gì (aparapratyaya) có nghĩa rằng trong thật tướng của các sự vật thì nó không tùy thuộc vào bất kì cái gì; nó thì được thành tựu không do sự trung gian, và không bởi sự chỉ dạy của một kẻ khác. Những kẻ với khiếm khuyết về thị giác nhìn thấy [trong tâm] các sợi tóc, muỗi độc, con ong, và v.v., mà chúng vốn không hiện hữu. Ngay dù được chỉ dạy bởi các kẻ có thị giác tốt thì các kẻ thị giác khiếm khuyết vẫn không có khả năng nhận thức thật tại tính / pháp tính của các sợi tóc hư huyễn, nghĩa là chúng không có khả năng không nhìn thấy nó ngay dù các kẻ có thị giác tốt không nhìn thấy nó. Nói chính xác hơn chúng thông hiểu một cách lí thuyết, từ chỉ dạy của các kẻ có thị giác tốt, đơn giản rằng các sự vật như thế đều là các huyễn tượng do thị giác. Tuy nhiên, khi các kẻ chịu khổ vì có khiếm khuyết trở thành các cá nhân có con mắt trí tuệ, được chữa lành bệnh bởi các ngôn từ của sự nhìn thấy phi trung gian các sự vật là vô tự tính, một cách bất khả luận bác, lúc đó chúng thật chứng một cách trực tiếp và để chúng nhận rằng [khi chưa thật chứng] thật tại tính /pháp tính của các sự vật như thế hoàn toàn không được nhìn ra. Nói vậy là đủ cho câu “ Không tùy thuộc bất kì cái gì ’’. Pháp tính của các sự vật là chân lí của các sự vật.

Pháp tính của ‘tịch tĩnh’(santa; at peace) là hoàn toàn vô tự tính tương tợ như các sợi tóc hư huyễn [cũng vô tự tính] mà các kẻ có thị giác tốt không nhìn thấy.

kế tiếp biểu từ ‘không xuất hiện trong vai trò sự vật được đặt tên’. ‘Sự vật được đặt tên’ nghĩa là ngôn ngữ tạo ra các sự vật với các ý nghĩa. ‘Không xuất hiện trong vai trò sự vật được đặt tên’ nghĩa là không thể diễn tả bằng cách dùng lời nói.

‘Vượt ngoài cấu trúc của tưởng’ (nirvikalpa; vô phân biệt). Cấu trúc của tưởng là hoạt động bẩm sinh/ câu sinh của tâm. Thoát khỏi cấu trúc của tưởng là thật tướng của các sự vật thì vượt ngoài cấu trúc của tưởng.

Như kinh văn có nói: Bởi vì tâm niệm phân biệt là sự lang thang của tâm, pháp tính của sự vật là, không có tâm niệm phân biệt, là không bị tâm niệm phân biệt hoá.[1]. Kinh nói ‘Gì là chân lí tối hậu? Nơi mà không có sự lang thang của tâm, làm cách nào có thể thốt ra ngôn từ?  Đây là ý nghĩa của cái ‘vượt ngoài cấu trúc của tưởng’.

Một sự vật được nói là ‘có hình dáng biến đổi’ có các hình dáng khác nhau. Điều này nghĩa là cái gì không có hình dáng khác nhau (anarnatha) là bất biến, không có các hình dáng bội thù, sai biệt.

Như có nói trong Nhập nhị đế kinh/ Nhập niết bàn kinh (Satyaadvayavatara Sutra): ‘Văn thù sư lợi giải thích cho Thiên tử: trong chân lí tối hậu tất cả các nguyên tố / giới [sáu đại: đất, nước, gió, lửa, không, thức] đều có cùng một bản chất bởi vì chẳng được tạo ra, chẳng được sinh ra trong bất kì ý nghĩa nào, chúng có cùng một bản chất. Đó là tại sao ? Bởi vì, trong chân lí tối hậu, tất cả các nguyên tố / giới chẳng bị tạo thành sai biệt trong niết bàn do từ chẳng sinh khởi từ phương diện tự tính theo bất kì ý nghĩa nào. Này, Thiên tử, ngay cả hư không trong một cái bình đất sét cũng giống như hư không trong một cái bình trang trí bằng ngọc, cả hai trong trạng thái của hư không, trong chân lí tối hậu chẳng bị tạo thành sai biệt, này Thiên tử, một cách tương tợ, hiện hữu bị phiền não, trong chân lí tối hậu, chẳng sinh khởi trong bất kì ý nghĩa nào; sự tịnh hoá cũng chẳng sinh khởi trong bất kì ý nghĩa nào. Chu kì sinh tử tự nó là, trong chân lí tối hậu, cái chẳng sinh khởi. Ngay cả niết bàn trong chân lí tối hậu hoàn toàn đồng nhất với chẳng sinh khởi / vô sinh; trong nó trong chân lí tối hậu, chẳng có yếu tố có thể tạo thành sai biệt. Đó là tại sao ? Bởi vì trong chân lí tối hậu, tất cả các nguyên tố của hiện hữu / giới (sáu đại) là tuyệt đối bất khả dị biệt’.

Trong ý niệm này là sự bất biến thiên được hiểu như là một sự tướng trạng hoá của thật tướng của các sự vật. Nó là bởi vì vô tự tính là sự đồng nhất về bản chất trên phương diện tự tính trong tất cả các sự vật. Sự minh giải chi tiết như thế có thể có từ cùng một nguồn. Như vậy là đầy đủ về con đường mà các thánh trí, những kẻ đã đánh bại chu kì sinh, già và chết, nói về thật tướng của các sự vật.   

---------

The true way of things

*

But, you ask, what is the nature of ‘the way things really are’ which the teachings of the revered ones are intended to penetrate to? This is explained in the verse ‘When the object of thought is no more, there is nothing for language to refer to’. When this obtains what further questions can there be? Though this is so, none the less the way things are really must be spoken of. This is done by speaking in a second sense (samaropatah).  One accepts the everyday (laulika) terms ‘real’, ‘not real’ and so on which are drawn from the world of transactional discourse (vyavaharasatya).

Nagarjuna expresses it this way.

XVIII.9  Not dependent on anything other than itself, at peace, not manifested as named things, beyond thought construction, not of varying form -- thus the way things are really is spoken of (tat tattvasya laksanam).

Not dependent on anything other than itself (aparapratyaya) means that in the way things really are one is not dependent on anything, it is to be attained without mediation and not by the instruction of another.  Those with an optical defect see hairs, gnats, bees and so on which do not exist. Even though instructed by those of sound vision they are incapable of realizing the true nature of illusory hair as it is, that is, they are not capable of not seeing it even as those of sound vision do not see it. Rather they understand theoretically, from the instruction with sound vision, merely that such things are optical illusions. When, however, those suffering from the defect become people with the eye of wisdom, cured by the balm of unmediated seeing are irrefragably without substance, then they realize directly and for themselves that it is the true nature of such things not to be seen at all. So much for the phrase ‘Not dependent on anything other than itself.’ The true nature of things (svarupa) is the way things are truly (tattvam).

The true nature of ‘at peace’ is to be entirely without self-existence like the illusory hairs not seen by those of sound vision.

And then expression ‘not manifested as named things’ (prapancair aprapancita; ‘Inexpressible in verbal language’ would be an alternative translation) means inexpressible by verbal utterance). ‘Named things’ means that language gives rise to things with meanings. ‘Not manifested  as named thing’ means inexpressible in verbal utterance.

‘Beyond thought construction’ (nirvikalpa). Thought construction is the innate activity of  mind. To be free of that is the way things are beyond thought construction. As the sutra says: ‘What id the higher truth? Where nothing is happening, not even knowledge, how could there be any utterance of words? This is what ‘beyond thought construction’ means.

Something which is said to be ‘of varying form’ has different forms. This means that what is not of varying form (ananartha) is invariable, does not have multiple, differing forms.

As it is said in the Satyadvayavatara Sutra: ‘Manjusri explained to Devaputra: In higher truth, all the putative elements of existence are of the same nature because it in not being produced, in not being born in any sense at all, they are the same nature. Why is that? Because, in higher truth, all the element of existence become undifferentiated in nirvana from not really arising in any sense at all. Even as, Devaputra, the space in a clay jar is the same as the space in a bejewelled jar, both being of the nature of space, in higher truth undifferentiated, similarly, Devaputra, afflicted existence, in higher truth, does not arise in any sense; nor does purification arise in  any sense. The birth - death cycle itself is, in higher truth, one with non-arising. Even nirvana is in higher truth absolutely the same as non-arising; in it higher truth, there is no differentiable factor. Why is that?  Because, in higher truth, all element of existence are absolutely undifferentiable.’

In this sense is invariableness to be understood as a characterization of the way things really are. It is because the absence of a self-existent nature is essentially one in all things. Further such exposition can be had from the same source. So much for the way those wise ones, who have vanquished the cycle of birth, old age and death, speak of the way things really are.

----------- 

Chú thích

Nagarjuna / Long Thọ  (c.150 - 250) ; Aryadeva / Thánh Thiên  (c.170 - 270) ; Buddhapalita / Phật Hộ (c. 470 - 540); Bhavaviveka / Thanh Biện (c. 500.570) ; Candrakirti / Nguyệt Xứng (c. 570 - c.650);  Santideva / Tịch Thiên (c.700) ; Santaraksita / Tịch Hộ  (725-788) ; Atisa ( 982- 1054) ; Prajnakaramati ( c.950-1000) ; Tsongkhapa (1357-1419)

Vô Trước / Asanga  (310 - 390) Thế Thân / Vasubandhu (320 - 400) . Cưu ma la thập ( 344 - 413)  Tăng Triệu / Seng-chao  (383 - 414) ; Huyền Trang / Hsuan - tsang (600 -664)

*

XVIII.9 . Non-conditionally related to any entity, quiescent, non-conceptualized by conceptual play, non - discriminative, and non - differentiated. These are the characteristics of reality  (i.e., descriptive onf one  who has gained the Buddhist truth).

(translated by Kenneth K. Inada)

XVIII.9  Không quan liên tùy thuộc tới bất kì sự vật, tịch tĩnh, không bị ý niệm phân biệt hoá bởi trình diễn ý niệm phân biệt, không đối xử sai biệt, và không tạo thành sai biệt. Đây là các tướng trạng của pháp tính [= bản miêu tả về kẻ đạt chân lí Phật giáo] (tat tattvasya laksanam) [Bản dịch của Kenneth K. Inada]

-------

the true nature of things: dharmata : pháp tính

reality: dharmata : pháp tính ; thật tại tính; thật tại

the everyday : laulika; thế tục

the world of transactional discourses ( vyavaharasatya) : chân lí thế tục

the absence of  a self-existent  nature: vô tự tính ; tự tính không

all the element of existence”:  các nguyên tố; các giới (dhatu) : đất, nước, gió , lửa , không , thức ; sáu đại

give rise to something (formal) cause something (to happen)

Samaropa: ý niệm thiết lập theo lí thuyết = ý niệm thứ nhì = cái không hiện hữuhiện hữu

samaropa: what does not really exist to be existent;

apavada is to hold what in reality exists to be non-existent

Therefore the concepts of  samaropa and apavada are used in order to reveal that both realism and nihilism are illusory

Satyadvayavatara sutra: Nhập nhị đế kinh ; Nhập niết bàn kinh; Nhị đế liễu đạt kinh; cũng được biết đến dưới tên :Thế tục đệ nhất nghĩa sớ kinh (Samvrtiparamarthanirdesa-sutra)

chú thích [1]

Bản dịch Việt căn cứ trên bản dịch Sanskrit- English của Mervyn Sprung. Trong bài này, có một số đoạn dịch giả Mervyn Sprung không dịch, nên độc giả không thấy được toàn thể ngữ cảnh pháp thoại của ngài Nguyệt Xứng.

Bản Việt thêm vào một đoạn trong Minh cú luận “Như kinh văn có nói: Bởi vì tâm niệm phân biệt là sự lang thang của tâm, pháp tính của sự vật là, không có tâm niệm phân biệt, là không bị tâm niệm phân biệt hoá.[1]. Câu này trích từ bài: Tsong Khapa. Giải thích Trung luận. Bài tụng kính lễ mở đầu Trung luận  (Bài 2)

Minh cú luận, giải thích về “tịch tĩnh -- tự do cách tuyệt cấu trúc của tưởng” nói:

< Khi bạn tri nhận thật tướng của duyên khởi, không có sự tham dự của tâm hoặc các tiến trình tinh thần/tâm ý.>

Sự tham dự trong ngữ cảnh này, theo Nhập Trung Đạo Giải Thích của Nguyệt Xứng (Madhyamakavatara-bhasya) là sự lang thang vì nó được nói rằng sự lang thang của tâm và các các biến cố tinh thần (mental episodes) thì bị chấm dứt. Minh Cú luận nói trong lãnh vực này:

< Bởi vì tâm niệm phân biệt (conceptual thought) là sự lang thang của tâm, thật tướng của các sự vật, là tự do cách tuyệt điều đó (= lang thang của tâm), thì không bị tâm niệm phân biệt hoá (conceptualized). Kinh nói rằng,  “Chân lí tối hậu là gì? Nơi không có sự lang thang của tâm không có nhu cầu nói về các lời” (Bồ tát tạng kinh; Bodhisattvapitaka-sutra).>

< Since conceptual thought is the wandering of mind, the way things really are, being free from that , is not conceptualized. Sutra says, “What is the ultimate truth? Where there is no wandering of mind there is no need to talk about words.>

----------

Phụ Bản 1: Lược trích từ -- Trung Đạo. Chính tín căn cứ trong Suy lí . Bài 3 . Phân tích về Ngã và Vô ngã 

Chống lạihội thông hiểu sai lầm

Từ tụng 9 trở đi, Ngài Long Thọ cung cấp những cách thức để chống lại sự hiểu sai tính không, hoặc chân lí tối hậu.

Tụng 9

Không thể nhận biết từ cái khác, tịch tĩnh,

Không sinh bởi cấu trúc của tưởng,

Không bị hữu niệm hoá, không bị phân biệt,

Đó là đặc tính của pháp tính/thực tại tính.

Bài tụng này trình bày năm đặc hữu chính của chân lí tối hậu. Về căn bản, tụng khẳng định rằng như thị tính vượt ngoài tầm nhìn của ngôn ngữtâm niệm (Basically, the stanza is stating that suchness lies beyond the purview of language and thought). Không giống như các đối tượng hàng ngày—nơi chúng ta có thể phân biệt giữa một sự vật và các thuộc tính của nó – tính không chỉ là thuần phủ định về hiện hữutự tính là cách tuyệt với bất cứ một sự phân biệt nào như thế. Nó hiện hữu trong tính cách của một pháp vị đơn biệt (single taste). Điều này không có nghĩa là như thị tính của tất cả các hiện tượng hiện hữunhất như (one). Mặc dù mỗi một và mỗi mỗi hiện tượng đơn biệt đều có như thị tính, điều đó chỉ có nghĩa là tất cả các hiện tượng đều có chung bản chất chẳng có hiện hữutự tính [=vô tự tính]. Đó là ý nghĩa của bài tụng này.

(It exists in the manner of a single taste. This does not mean that the suchness of all phenomena exists as one. Although each and every individual phenomenon has suchness, that thus means all phenomena share the nature of being empty of intrinsic existence. That is the meaning of this stanza)

------------------

Phụ Bản   Bổn Vô / Chân Như
Xin nhớ đến lời Đại sư Tăng Triệu (374 - 414) (tịch lúc 31) trong Triệu luận, phần Tông Bản Nghĩa:
“Bổn vô / Chân như, Thật tướng, Pháp tánh, Tánh không, Duyên hội, năm danh từ trên vốn chỉ có một nghĩa.
Để vạch ra tông chỉ chánh phápcăn bản của bổn Luận, hai chữ Bổn Vô / Chân Như chỉ ngay tâm tịch diệt vốn không một pháp, lià tất cả tướng, dứt bặt Thánh phàm, nên gọi là Bổn Vô /Chân Như, chẳng phải có ý làm thành vô (có nghĩa là chẳng phải từ hữu lần biến thành vô, vì Bổn Vô / Chân Như này nó vượt ngoài cái có và không tương đối).
Vì tất cả pháp đều do vọng tâm tùy duyên biến hiện mà có, tâm vốn vô sanh, chỉ do nhân duyên hội hợp mà sanh nên gọi là DUYÊN HỘI.
duyên sanh ra các pháp, vốn không có thật thể, do nhân duyên sanh ra nên nói không, nên gọi là TÁNH KHÔNG, vì pháp thểchơn như biến hiện nên gọi là PHÁP TÁNH.
Do chơn như pháp tánh mà thành các pháp, chơn như không có tướng, nên bản thể các pháp tịch diệt, nên gọi là THẬT TƯỚNG.
Vì bổn vô / chân như là thể của tâm, duyên hội là dụng của tâm, thật tướng , pháp tánh , tánh không, đều là cái nghĩa do tâm tạo thành vạn pháp nên nói là một nghĩa vậy …
Tại sao vậy? Tất cả các pháp đều do nhân duyên hội hợp mà sanh, duyên hội mà sanh thì khi chưa sanh không có, duyên lìa thì diệt, nếu mà thật có, có thì chẳng diệt. Theo đó mà suy ra thì biết, dù nay hiện ra có, cái có ấy tánh thường tự không, vì tánh thường tự không, nên gọi là TÁNH KHÔNG, bởi vì tánh không nên gọi PHÁP TÁNH, pháp tánh chân thực như thế nên gọi là THẬT TƯỚNG, thật tướng vốn không có tự thể, chẳng phải do suy lường mà cho đó là không, nên gọi là Bổn  Vô / Chân như.”

(Trích từ Triệu Luận Lược giải. Thích Duy Lực dịch, trong CHƯ KINH TẬP YẾU, trang 470 - 471) ..

*Bổn vô : thời ngài La thập dịch là bổn vô ; về sau dịch là Chân như

-----------

Giới hạn của ngôn ngữ  ( Nguyệt Xứng. Minh cú luận.p.179)

Và từ Chính định vương kinh / Nguyệt đăng tam muội kinh (Samadhirajasutra):

“Khi Đức Phật, thánh giả, quốc vương của chân lí, vị khai hiển của tất cả các chân lí xuất hiện, điệp khúc thì được vang lên từ cây cỏ, cây con và cây lớn và cây nhỏ, từ sỏi đá và các núi non: tất cả các tập hợp của đời sống đều là tính không / tính chân không diệu hữu”

“Bất kì xa xôi cách nào chỉ thuần các đơn vị chữ viết, lời nói vươn tới cõi thế tục, tất cả đều là tính không/ tính chân không diệu hữu, chẳng có cái chi là thật [ thật = chẳng biến dịch]; và  vang xa là tiếng gọi của đức Phật, vị hướng dẫn và vị thầy của tất cả loài người”.

*  

And from the Samadhirajasutra:

‘When Buddha, the sage, the king of truth, the revealer of all truths appears, the refrain is sounded from grass and bush and tree and plants, from the rocks and the mountains: all element of existence are without being’.

“Howsoever far mere words reach in the world realm, all are without being, none is real; and so far resounds the call of the realized one, the guide and teacher of all men.’

------

Niết bàn

Khi chư Phật nhập niết bàn, đại lạc tối hậu, đó là sự an tĩnh của các cấu trúc của tưởng, chư Phật tương tợ như các thiên nga huy hoàng trong bầu trời, tự thong dong trong hư không hoặc trong chân không diệu hữu của hư không trên đôi cánh của tích tập phúc đứctrí tuệ; kết quả nên biết đó là bởi vì chư Phật không tri nhận các đối tượng là các tướng trạng, không có ‘Chân Lý’ gắt gao bất kỳ là cái gì quan liên đến sự nô lệ hoặc sự tịnh hoá đã được giảng dạy giữa hoặc cho cõi trời hoặc cõi người dù là bất kỳ cái gì. 
*
When the illustrious Buddhas are in nirvana, the ultimate beatitude, which is the coming to rest of named things as such, they are like kingly swans in the sky, self-soaring in space or in the nothingness of space on the twin wings of accumulated merit and insight; then it should be known , that, because they do not perceive objects as signs, no rigid ‘Truth’ whatsoever either concerning bondage or purification has been taught either among or for any gods or men whatsoever.

*Candrakirti. Lucid Exposition of the Middle Way. Prasannapada of Candrakirti . Translated by Mervyn Sprung -- p. 262. (Nguyệt Xứng. Minh Cú luận
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9876)
Nghiệp quả: Quả chín (trên năm uẩn), * Quả tương đương với nhân,# Nghiệp quả qua hoàn cảnh
(Xem: 15139)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 7933)
Những truyền thống khác nhau của Tây Tạng đến từ Đức Phật - Kadam, Sakya, Kagyu, và Nyingma - tất cả theo sự trình bày của những ...
(Xem: 9591)
Chủ đề về tánh không bao hàm tất cả giáo huấn Phật Giáo bởi vì chính Đức Phật hít thở bằng tánh không (hiện hữu, trường tồn và sống trong tánh không)
(Xem: 9647)
Từ Bi, có nghĩa là tình thương yêu rộng lớn đối với muôn loài hữu tình chúng sanh (loài ngườisúc vật). Tình thương rộng lớn này được...
(Xem: 8136)
Pháp thân Phậttánh Không không hình không tướng ở khắp như hư không. Báo thânquang minhHóa thân là thân vật chất;
(Xem: 10303)
Thường nghe rằng, cửa ngõ vào Chánh đạo, sự phát tâm quan trọng nhất; việc gấp trên đường tu, không gì hơn lập nguyện.
(Xem: 8715)
Không có hiện tượng nào đang tồn tại mà không phải là kết quả của nhân duyên
(Xem: 9154)
Đức Phật có nói: "Như Lai đã đạt đến sự hiểu biết rõ ràng về điều nầy, nghiệp lực, xuyên qua trí huệ cao cả của chính Như Lai."
(Xem: 9028)
Sau khi Đức Phật giác ngộ, bài giảng đầu tiên của ngài tập trung vào Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế), đó chính là nền tảng của Đạo Phật.
(Xem: 8169)
Bốn dấu ấn của hiện hữu, Phạn ngữ gọi là caturlaksana, Pà li ngữ là caturlakkhana, hoặc còn gọi là Dharma mudra.
(Xem: 8948)
Chúng ta cần phải quy y Tam bảo để cứu mình ra khỏi đường hiểm khổ đau, đến chỗ an vui giải thoát.
(Xem: 25784)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 9058)
Để phân biệt với người không Phật tử, có sự quy y hay phương hướng an toàn, và để phân biệt với con đường Tiểu thừa, có sự quy y của Đại Thừa.
(Xem: 14414)
"Lý thuyết Nhân tính qua kinh tạng Pàli" là đề tài luận án Tiến sĩ do Thượng tọa Thích Chơn Thiện thực hiện và đệ trình tại Đại học Delhi
(Xem: 8205)
Thưa đại đức! Khi thọ khổ phát sanh, bậc A-la-hán chỉ thọ có một khổ thọ ấy, còn phàm phu thì thọ luôn cả hai thọ khổ, có phải vậy chăng?
(Xem: 8583)
Con số 84.000 trong do ngài An Nan thuật lại trong Trưởng Lão Kệ của Tiểu Bộ chính là 84.000 Pháp tức “dhamma” trong tiếng Pāḷi.
(Xem: 11904)
Đạo Phật không mang đến cho ta tiền tài hay danh vọng mà chỉ cho ta tình yêu thương bất diệthạnh phúc đích thực miên viễn trong dòng khổ đau của nhân sinh
(Xem: 9059)
Theo truyền thống sinh hoạt tu học của chư Tăng Ni từ thời Đức Phật còn tại thế, cứ đến ngày kết thúc một mùa an cư thì Đức Thế Tôn cùng chư Tăng Ni đều...
(Xem: 10368)
Mối quan hệ sâu đậm với một vị thầy tâm linh có thể là sự nối kết thăng hoa và quan trọng nhất trong một đời người.
(Xem: 8363)
Thức( vijnana) là dòng trôi tương tục dao động sáng tạo với những biểu đồ phức tạp được chi phối bởi những hệ quy chiếu mang màu sắc chủ quan
(Xem: 8982)
Không ai có khả năng biết được, sự bắt đầu của thế giới luân hồi (trong các cuộc sống diễn tiến liên tục, ở trong vòng sinh tử).
(Xem: 9996)
Đức Phật Thích Ca đã thường nói về Năm Uẩn, cũng còn được gọi là Năm Tập Hợp, hoặc là Năm Đống Hàng Cao Như Ngọn Núi.
(Xem: 9442)
Dục là nguyên nhân của khổ đau, nguồn gốc của dục có từ vô thỉ, sự trói buộc của nó đối với chúng sanh trong luân hồivô lượng kiếp.
(Xem: 8193)
Từ ngữ Niết Bàn xuất phát từ nguồn có ý nghĩa là "Dập tắt ngọn lửa", để nói đến việc dập tắt đi những ngọn lửa tham lam, sân hận, và si mê (tham sân si).
(Xem: 9479)
Niết bàn được xem là mục đích cứu cánh của đạo Phật, chỉ trạng thái tâm thức đã gột sạch hết mọi vô minh phiền não, sự giải thóat khỏi các kiết sử tùy miên...
(Xem: 8515)
Như tâm, Phật cũng vậy Như Phật, chúng sanh đồng Nên biết Phật cùng tâm Thể tánh đều vô tận
(Xem: 10948)
Hoa Sen biểu trưng cho những giá trị đạo đức, sự thuần khiếtthánh thiện, sự duy trì và phát triển Phật pháp, trí tuệ dẫn đến Niết Bàn.
(Xem: 9082)
Con người sinh ra trong thế giớidần dần, ngoài những sự vật đã có trong thiên nhiên, sáng chế ra những sự vật để dùng trong cuộc sống.
(Xem: 10528)
Phật giáo như ánh sáng mặt trời mà nhìn ánh sáng ấy, chúng ta chỉ có cặp mắt nhỏ hẹp. Tuy nhiên một là tất cả, chúng ta có thể căn cứ một vài điều sau đây mà biết tất cả đặc điểm của Phật giáo.
(Xem: 8291)
Có một số đặc thù là văn hóa, hoặc là đối với văn hóa phương Tây, hay đối với Á châu và những nền văn hóa khác bị ảnh hưởng bởi sự suy nghĩ của phương Tây hiện đại.
(Xem: 10287)
Tất cả các pháp nhân duyên sanh Thể tánh chẳng có cũng chẳng không Ở nơi nhân duyênsanh khởi Trong đó đều trọn không chấp trước
(Xem: 10465)
Nhân sau cùng sinh quả dị thục, Nhân đầu tiên sinh quả tăng thượng, Nhân đồng loại, biến hành sinh quả đẳng lưu, Nhân câu hữu, tương ưng sinh quả sĩ dụng
(Xem: 9013)
Đức Phật thị hiện là một con người như mọi người, điều này khẳng định cho chúng ta biết ngài không phải là thần linh, thị hiện ở núi non kỳ dị.
(Xem: 8256)
Tâm Bồ Đề (skt:Bodhicitta) là tâm giác ngộ, tâm thấy được bản mặt thật của chư pháp, tâm tin nơi nhân quảPhật Tánh nơi chúng sanh cũng như luôn dụng công tu hành hướng về quả vị Phật.
(Xem: 16652)
Muốn hết Nghiệp thì Tu ! Thì, Trì Chú ! Đó là “Thực Phẩm ngon” của Người Tu Hành xưa cũ.
(Xem: 12311)
Phật Học Vấn Đáp - Duy Thức Học Phần thứ 8; Lý Bỉnh Nam giải đáp, Thích Đức Trí chuyển ngữ
(Xem: 12268)
Hãy nương tựa vào chính mình, tự xem mình là ngọn đuốc soi đường cho mình, là nơi an trú cho mình, mà không cần một nơi an trú nào khác cả...
(Xem: 8798)
Nguyên tác: Background for Understanding Bodhichitta, Tác giả:Alexander Berzin/ Riga, Latvia, July 2004; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10221)
Giáo thuyết tối thượng tịnh hóa tâm thức, Là việc vắng mặt sự tồn tại cố hữu.
(Xem: 8542)
Điều cương quyết để thọ tám chi của Luật nghi này, là phải có tối thiểu một vị Tỷ-kheo làm giới sư truyền thọ, chứ không thể tự một mình phát nguyện thọ trì được.
(Xem: 9074)
Trong Đạo Phật thuật ngữ tự ngã có hai ý nghĩa phải được phân biệt nhẳm để tránh nhầm lẫn. Một ý nghĩa của tự ngã là ‘cá thể’ hay ‘chúng sinh’.
(Xem: 10378)
Có nguồn gốc từ Ấn-độ, là tín lý căn bản trong Ấn-độ giáo, Phật giáo cũng như Kỳ-na giáo, và cả đến đạo Sikh; được truyền vào Trung hoa rất sớm, dịch là nghiệp,
(Xem: 8748)
Cận trụ nguyên ngữ Sanskrit là là upavāsatha, Hán phiên âm là ô-ba-bà-sa, Ưu-ba-bà-tố-đà, Ưu-bà-sa, U-ba-bà-sa, Ô-bô-sa-tha v.v…
(Xem: 8219)
Nói đến lòng sùng tín, sùng mộ và tin tưởng, có lẽ không phẩm nào của Kinh Đại Bát-nhã nói cụ thểxúc động hơn phẩm Bồ-tát Thường Đề...
(Xem: 8749)
Nguyên tác: Introduction to Bodhicitta - Tác giả: Alexander Berzin/ Riga, Latvia, June 2003 - Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 8089)
Đẳng lưu nhân-quả, là một trong những tư lương quan trọng trên con đường trung đạo, trong lộ trình tu tập thông đạt chánh kiến về duyên khởi hay mười hai chi duyên.
(Xem: 7859)
Ly Hệ Quả Sanskrit gọi là Visamyogaphala. Visam là thoát ly, tách rời, đoạn trừ, ly khai. Yoga là tương ưng, liên hệ. Nên Ly hệ, visamyoga: dứt khỏi sự trói buộc.
(Xem: 9570)
Tôi đã tìm thấy chìa khóa của hạnh phúc, và tôi đã bị thuyết phục rằng, tôi đã vượt qua mọi nhà sư khác về sự cao quý. Nhưng mỗi khi tôi rời thiền đường, những cánh cửa lại thì-thầm, 'Tất cả là không.'
(Xem: 8730)
Từ nơi Thánh Trí tối thượng ba-la-mật, đức Thế Tôn tuyên thuyết Kinh Năng Đoạn Kim Cương, nên Kinh này dạy rất nhiều vấn đề cốt lõi của giáo Pháp.
(Xem: 10693)
Như lý tác ý (Yoniso manasikàra) hay còn gọi là như lý khởi tư duy là một thuật ngữ Phật học dùng để nói về cách nhìn sự vật hay hiện tượng một cách đúng đắn theo quan niệm của đạo Phật.
(Xem: 15143)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Śīla: học xứ, học giới,... nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể.
(Xem: 12821)
Nếu chúng ta thật sự quan tâm về tương lai chính chúng tahạnh phúc an lạc của chính đời sống của mình, chúng ta nên phát triển một thái độ tinh thần trong điều mà thực hành từ bi đóng một vai trò trung tâm.
(Xem: 8146)
Những giới khinh của Bồ tát giới là để tránh khỏi 46 hành vi lỗi lầm (nyes-byas). Những hành vi lỗi lầm này được phân thành bảy nhóm gây thiệt hại...
(Xem: 16744)
Chúng ta cũng có thể sử dụng cách dịch phổ thông hiện này là: Như Thị Ngã Văn 如是我聞: Tôi nghe như vậy, tôi nghe như thế v.v...
(Xem: 6282)
“Phật y trên năm hạng chủng tánhthành lập năm thừa: Chủng tánh Thanh văn thừa; Bích-chi-phật thừa; Như lai thừa; Bất định thừa; và vô tánh thừa.
(Xem: 9608)
46 đại nguyện của Đức Phật A-di-đà là một bản đồ tu tập lý tưởng cho những ai đã phát Bồ-đề Tâm song song với bản nguyện muốn kiến lập tịnh độ ngay trong thế giới Ta-bà...
(Xem: 7052)
Bốn pháp căn bản thành tựu thần lực, bốn cơ sở để có sức mạnh tinh thần hay sức mạnh tâm linh....
(Xem: 7731)
Quán Thế Âm, ngữ nguyên Sanskrit là Avalokiteśvaras, āvalokiteśvaro, avalokiteshvara là danh từ số ít Phạn ngữ, Hán dịch là Quán Thế Âm hay Quán Tự Tại.
(Xem: 7068)
Thành Duy Thức Luận trình bày hai quả chuyển y là Đại Niết-bàn và Đại Bồ Đề; Do đoạn trừ hết thảy các chướng mà thành tựu hai quả vị thù thắng này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant