Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tập Tục Dâng Hương

12 Tháng Ba 201606:40(Xem: 8323)
Tập Tục Dâng Hương

Tập Tục Dâng Hương
 

Thích Thánh Minh

Mỗi lần, trước khi hành lễ ở các chùa, vị chủ lễ thường chắp tay cầm ba nén nhang dâng lên trên trán và đọc thầm bài kệ niệm hương: “Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo, thệ trọn đời giữ đạo, theo tự tánh làm lành, cùng pháp giới chúng sanh, cầu Phật từ gia hộ, tâm bồ đề kiên cố, xa bể khổ nguồn mê, chóng quay về bờ giác.” Và chúng ta cũng thường nghe những vần thơ như: “Lặng lẽ chiên đàn tỏa khói hương, đỉnh trầm xông ngát ý thiền môn, lung linh nến ngọc ngời sao điểm, xóa sạch trần gian hết tủi hờn…” Những vần thơ này đã giới thiệu về những nét đẹp văn hóa của sinh hoạt tín ngưỡng, sinh hoạt tâm linh và cho chúng ta thấy nghi thức dâng hương là nét văn hóa rất đẹp trong nghi lễ thiền môn.

Tại các tư gia quý Phật tử, việc thắp hương cúng Phật, dâng hương lên bàn thờ ông bà, tổ tiên trong các ngày lễ, ngày giỗ chạp cũng không thể thiếu được. Những người không theo đạo Phật, họ vẫn thắp nhang để tỏ lòng thành kính với ông bà tổ tiên, trong các lễ tiết như tết Nguyên đán, trong những ngày sóc vọng...

Những điều này đã cho chúng ta thấy dâng hương là một trong những tập tục truyền thống lâu đời trong văn hóa sinh hoạt tín ngưỡng của người Việt nam. Cho dù dòng đời có những thay đổi, cuộc sống có những biến thiên nhưng tập tục dâng hương không bao giờ mất đi. Trái lại nó càng mở rộng ở Đình làng Miếu vũ cho đến việc thực thi lễ dâng hương tại các nghĩa trang liệt sĩ để tỏ lòng biết ơn, ghi nhớ công lao của những anh hùng, chiến sinh, anh linh đã hy sinh vì nước vì dân. Tập tục dâng hương là một trong những nét văn hóa đẹp trong nếp sống sinh hoạt tâm linh, cho nên  chúng ta cần phải đặc biệt  quan tâm đến.

Thưa quý vị! Khi trình bày đề tài này, tôi biết trong quý vị sẽ có người bảo rằng: Thắp nhang, đốt hương là một việc làm rất bình thường có gì là quan trọng phải để tâm suy nghĩ, luận bàn? Xin thưa rằng: Dâng hương không chỉ có nghĩa là đốt hương, thắp nhang mà nó còn mang cả một văn hóađạo lý, cao hơn nữa nó còn mang ý nghĩa của một quan niệm triết lý vũ trụnhân sinh. Nó không phải là một động tác thắp nhang, đốt hương mà nó đã trở thành một tập tục dâng hươngnghi thức, có luật tắc rõ ràng.

Theo định nghĩa trong từ điển tiếng Việt của Minh Tâm - Thanh Nghị: Hương là mùi thơm, vật đốt cho thơm khi cúng, khi nguyện v.v... (Lò trong ngát dạ, đỉnh ngoài bay hương (Nhị Độ Mai). Theo Từ điển Phật học Huệ Quang: Hương liệu được tinh luyện từ dầu của những loại cỏ hoặc gỗ thơm, gồm các loại như  Chiên đàn hương, Trầm thủy hương, Đinh tử hương, Uất kim hương, Long não hương. Năm thứ hương này Mật giáo thường sử dụng trong lúc lập đàn. Nếu phân biệt theo cách sử dụng và chế tạo thì có các loại như Đồ hương (hương xoa trên thân), Thiêu hương (hương đốt để xông), Huân hương (hương ướp), Mạc hương (hương bột dùng để rắt nơi đạo tràng và chùa miếu), Hương thủy (nước hương).

Hương Hỏa: hương và đèn dùng chỉ việc thờ cúng tổ tiên. Lo việc hương hỏa (từ điển tiếng Việt).
Có nhiều người thắc mắc tại sao thắp hương lại dùng những con số lẻ nén nhang 1, 3, 5, 7, 9, v.v...? Thường thì ba nén nhang và hai bàn tay luôn luôn chắp lại và miệng thì lâm râm thầm khấn nguyện? Phải chăng số lẻ là con số tượng trưng cho sự linh thiêng, tượng trưng cho trời vì chiếu theo luật cơ-ngẫu  của dịch lý thì số lẻ thuộc Dương, số chẳng thuộc Âm. Dương tượng trưng cho trời, cho sự linh thiêng, cho vô hình, cho sự trong sạch thanh tịnh, cho sự sinh trưởng phát triển, cho các cõi trên như Tiên, Thánh, Phật...

Con số ba liên quan đến biểu tượng “Lưỡng long triều nguyệt”, nghĩa là đôi rồng chầu vào một mặt nguyệt, ta thường được trang trí trên các bát nhang, lư hương lớn nhỏ ở các nơi thờ tự. Theo dịch lý đôi rồng là tượng trưng của dương, ứng với hai hào dương trong các quẻ Kinh Dịch. Còn mặt nguyệt là tượng trưng của âm, ứng với hào âm trong các quẻ. Ở đây, hào âm (mặt nguyệt) ở giữa, còn đôi rồng chầu hai phía. Lưỡng Long triều nguyệt cũng chính là biểu tượng của quẻ Ly.

Không những vậy, con số 3 còn liên quan cả một quan niệm triết học về vũ trụ của người phương Đông: Thiên, Nhân, Địa (Trời, Nguời, Đất) gọi là Tam tài. Người xưa rất chú trọng về ý nghĩa Tam tài, cho nên làm bất cứ việc gì họ đều xét nét tỉ mỉ về Thiên thời, Địa lợi và Nhân hòa, nếu thấy đầy đủ ba yếu tố Tam tài thì mới hành sựtin tưởng điều ấy sẽ thành công.

Ngày xưa, Lý Thường Kiệt với lời tuyên ngôn: Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư, đã từng “mượn” uy linh của đền thờ Trương Hống, Trương Hát mà khích lệ ba quân tướng sĩ, Chính sửDã sử  còn ghi lại những hiện tượng “âm phù”, “báo mộng” của các thần linh đối với vua chúa đem quân đi chống giặc. Tín ngưỡng ấy, nó đã từng có những tác dụng không nhỏ trong cuộc sống của con người, nhiều khi có tác dụng làm lay động cả một cộng đồng.

Tuy vậy, hiện nay có người không hiểu và cho rằng dâng hương là một trong những hành động mê tín dị đoan, kém văn minh, thiếu khoa học, bởi vì hiện nay hương chỉ làm bằng mạt cưa, bằng cây v.v… rồi tin tưởng đặt trong lư hương và cho là thiêng liêng. Những hành động ấy đã không đem lại lợi ích, lại còn làm nhơ bẩn đến nhà cửa và hao tốn tiền bạc. Lời này mới nghe qua có lý, nhưng tìm hiểu cặn kẻ nguồn gốc và ý nghĩa của việc dâng hương thì ta thấy lời nhận định trên đây hoàn toàn sai lầm.

Chúng ta thử tìm hiểu từ đâu mà có tập tục dâng hương?

Theo Phan Kế Bính, trong “Việt Nam phong tục” thì việc đốt hương xuất phát từ Tây Vức. Đốt hương nghĩa là cầu cho quỷ thần giáng cách. Khi xưa tục Tàu tế tôn Miếu chỉ dùng cỏ tiêu (cỏ thơm) trộn với mỡ đốt cho thơm. Đến đời nhà Hán, vua Vũ đế sai tướng sang đánh nước Hồn Gia (xứ Tây Vức), vua nước ấy đầu hàng, dâng một thân tượng bằng vàng. Vua Vũ Đế đem tượng về đặt trong cung Cam Toàn để dâng hương tế lễ. Kể từ đó, Tàu mới có tục đốt hương.

Theo Pháp sư Tịnh Không: Đốt hương? Hương đại biểu cho hương tín, đây là một tín hiệu mà người xưa đã dùng rất rộng rãi. Rõ ràng nhất, Nơi Vạn lý trường thành, chúng ta thấy cách một đoạn có một phong hỏa đài, phong hỏa đài là đài truyền tin gấp rút. Phong hỏa đài giống như cái lò hương. Người ta dùng lửa đốt phân sói, mật độ của khói phân sói không giống như khói khác, gió khó thổi tan và duy trì lâu. Ở xa trông thấy chỗ có khói thì biết rằng chỗ kia có biến cố, đây là cách truyền tin gấp của người xưa. Việc đốt hương để truyền tin gấp đến chư Phật và Bồ tát khiến cảm ứng đạo giao cũng xuất phát từ ý niệm truyền tin kiểu này.

Đạo Phật đã được truyền bá vào Việt Nam từ  những thế kỷ trước Công nguyên, cho nên văn hóa Phật giáo  hòa quyện cùng văn hóa bản địa đã tạo ra một Văn hóa tín ngưỡng rất đặc thù. Tập tục dâng hương theo quan điểm của Phật giáo, hương thắp lên vừa đạt được ý nguyện tâm linh dâng mùi thơm và chuyển lời cầu nguyện lên ngôi Tam bảo chứng minh, vừa để biểu hiện chí tâm hướng tới điều thiện.

Khi đốt hương cúng Phật, chúng ta thường đọc những câu mật ngữ như: “Hương Yên khiết thể, thông xuất tam giới, ngũ uẩn thanh tịnh, tam độc liễu nhiên.” Trong lúc cầm ba nén nhang vị chủ lễ xướng to bài kệ: “Thử nhất biện hương, bất tùng thiên giáng, phi thuộc địa sanh. Lưỡng nghi vị phán chi tiên, căn nguyên sung tắc tam giới, nhứt khí tài phân chi hậu. Chi diệp biến mãn thập phương. Siêu nhật nguyệt chi quang hoa, hàm sơn xuyên chi tú lệ. Tức giới tức định tức huệ. Phi mộc phi hỏa phi yên. Thâu lai tại nhứt vi trần. Tán khứ phổ châu sa giới. Ngã kim nhiệt hướng lư trung, đoan thân cúng dường. Thập phương thường trú Tam bảo, sát hải vạn linh, tất trượng chơn hương, đồng quy chơn tế.
(Mông Sơn Khoa Nghi)

Chúng ta lắng lòng khi đọc những câu như vậy với những phút giây thanh tịnh, sẽ thẩm thấu được sâu sắc ý nghĩa dâng hương: Hương ở đây chẳng phải là những vật liệu  làm bằng mạt cưa, chẳng phải là lửa là khói và hương cũng chẳng phải là mùi thơm, vật đốt cho thơm khi cúng. Mà hương ở đây chính là ngũ phần hương. Giới hương, Định hương, Huệ hương, Giải thoátGiải thoát Tri Kiến hương, dâng lên cúng dường mười phương chư Phật, chư Hiền Thánh, thể hiện lòng  thành kính của chúng ta.

Tích xưa, có một đồng tử sau khi nghe lời đức Phật dạy thực hành các phương thức quán các pháp hữu vi. Đồng tử bèn lẳng lặng tu tập. Một hôm nhân thấy quý thầy Tỳ-kheo đốt hương trầm thủy mùi hương ngào ngạt, khói tỏa lan vào mũi. Đồng tử quán mùi thơm: Không màu, không sắc, không trong không ngoài, không đến không đi, không phải không, không phải có… nhơn đó tỏ ngộ lý chơn thường đắc quả A-la-hán, Phật liền ấn chứng cho đồng tử với danh hiệu Hương Nghiêm. Để ca ngợi hạnh quả của Hương Nghiêm, tổ Từ Vân có làm bài nguyện Tán hương sau đây:

“Tâm nhiên ngũ phận, phổ biến thập phương

Hương yên Đồng tử ngộ chơn thường

Tỉ quán thiệt nan lường

Thoại ái tường quang

Kham hiến Pháp trung Vương

Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát.”

Nghĩa:

Hương lòng năm món biến khắp mười Phương

Hương Đồng Tử (nhơn khói) tỏ lý chơn thường

Diệu lực của mũi thật không lường

Sáng tốt đẹp lành quý như ngọc Khuê – Bích

Xin dâng cúng dường đại Pháp Vương.

Cúng kính dâng mây hương khắp (lợi lạc) Giác Hữu Tình.

Trong kinh Pháp Cú đức Phật dạy: “Không một hương hoa nào, bay ngược chiều gió thổi, chỉ hương người đức hạnh, bay ngược gió bốn phương”.

Giới Hương: Muốn trở thành người đức hạnh trước hết chúng ta phải giữ giới, chúng ta phải sống một đời sống trong sạch. Chúng ta phải làm việc để nuôi sống bản thân bằng một nghề nghiệp chân chánh. Chúng ta phải siêng năng tinh tấn làm lành lánh dữ và không bao giờ lừa dối gạt gẫm thiên hạ bằng những lời vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệtác khẩu. Làm được như thế, hương thơm đức hạnhđạo đức của chúng ta sẽ tỏa sáng và lan rộng.

Định Hương: Nhờ giữ giới mà tâm chúng ta được an định, nghĩa là trong lúc tu tập để đạt được thanh tịnh hoặc để giải quyết một vấn đề gì đó trong sự nghiệp ở đời; cũng như hạnh nguyện giải thoát trong đạo, chúng ta phải gom thân khẩu ý vào một định hướng của chánh tư duychánh kiến. Hay nói một cách dễ hiểu hơn chúng ta phải sáng suốt, tỉnh táo để giải quyết mọi vấn đề. Làm được như vậy, chúng ta sẽ thành côngđạt được năng suất và hiệu suất của việc làm, đó là ý nghĩa của định hương.

Huệ Hương: Là ánh sáng mầu nhiệm của tâm linh, khi có định kiên cố thì tâm trí sẽ bừng sáng. Hằng ngày định tâm tu tập một pháp môn, quán chiếu suy xét mọi việc, hiện tượng trên nền tảng Chánh pháp như nhân duyên sanh, vô thường, vô ngã, hoan hỉ, xả ly. Bền bỉ thực hành lâu ngày, ta sẽ đạt được tâm thái an nhiên giải thoát. Ứng dụng hữu hiệu Chánh pháp làm cho nhận thức ta sáng tỏ như Chánh pháp, không bị tham, sân, si, tập khí phiền não quấy nhiễu. Đây chính là ý nghĩa của Huệ hương.

Giải thoát hương: Giải thoát là một thuật ngữ của Phật giáo được dịch từ Phạn ngữ là “mộc đề”, “mộc xoa”, nghĩa là rời bỏ mọi sự trói buộc mà được tự tại, cởi bỏ sự trói buộc của hoặc nghiệp, thoát ra khỏi khổ quả của Tam giới. Theo từ điển tiếng Việt của Minh Tân - Thanh Nghị - Xuân Lãm, do Viện ngôn ngữ Việt Nam ấn hành, định nghĩa từ giải thoát như sau: 1) làm cho thoát khỏi sự giam hãm, ràng buộc hay bế tắc, giải thoát được những ý nghĩ nặng nề. 2) thoát khỏi mọi điều đau khổ trên cuộc đời.

Muốn được giải thoát ta phải vâng lời Phật dạy tu tập theo tam vô lậu học. Nhân giới sanh định, nhân định phát huệ. Bởi vì, Giới, Định, Huệ là ba môn học chi phối toàn bộ giáo pháp giải thoát của đức Phật và luôn luôn đòi hỏi ở năng lực hành trì thâm hậu của tất cả Phật tử chúng ta. Làm được điều đó tâm hồn chúng ta sẽ phơi phới hạnh phúc, tràn đầy niềm vui và đem lai sự an lạc giải thoát đến với mọi người. Đây là ý nghĩa Giải thoát hương.

Giải thoát tri kiến hương: Tri kiến là sự nhận định, nhận thức của con người. Ở đời có những sự kiện xảy ra thường không đúng sự thật vì do chủ quan con người ấn định. Cùng một sự kiện, nhưng quan niệm của mỗi người nhận định mỗi khác, đó là do chủ quan của con người. Do sự thương ghét của chúng ta tác động vào sự tin tưởng của chúng ta, cho nên khi bị cảm giác kích động, con người sanh ra chủ quan; mà chủ quan theo danh từ Phật học gọi là tri kiến hay kiến trược. Khi đã bị chủ quan thì không bao giờ có nhận xét đúng. Bởi vậy, người ta phải tránh chủ quan, bởi vì chủ quan là nguồn gốc lôi kéo chúng ta đi vào những nhận xét sai lệch. Nếu tránh được chủ quan cũng chính là giải thoát tri kiến thì ta sẽ trở thành một người có nhận thức đúng đắn gọi là Giải thoát tri kiến hương. Ngược lại, ta không giải thoát được tri kiến thì chúng ta sẽ gặp nhiều hối hận sau khi đã thất bại. Nội dung những vần thơ sau đây sẽ minh chứng cho sự thật hiển nhiên đó:

Nghi ngút đầu gành tỏa khói hương

Miếu ai như miếu vợ chàng Trương

Ngọn đèn dầu tắt đừng nghe trẻ

Làn nước chi cho lụy đến nàng

Chứng quả có đôi vầng nhật nguyệt

Giải oan chi mượn đến đàn tràng

Qua đây mới biết nguồn cơn ấy

Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng.

Vua Lê Thánh Tôn ngẫu hứng sáng tác bài thơ này khá súc tích với những ý tưởng thành thật trong một dịp đi ngang qua bờ sông Hoàng Giang, thuộc huyện Nam Xương (tỉnh Hà Nam) trông thấy một ngôi Miếu tỏa khói hương nghi ngút ở đầu gành, hỏi ra mới biết nơi đây đã xảy ra một câu chuyện hết sức thương tâm:
 Người chồng họ Trương đi lính thú lâu ngày. Ở nhà mỗi khi con hỏi “cha đâu” thì vợ lại chỉ bóng mình trên tường và bảo đứa trẻ rằng đó là cha nó. Khi người chồng trở về, đứa bé không nhận ra cha và nói rằng cha nó tối mới đến… Nghi vợ ở nhà ngoại tình, người chồng sỉ nhục và đánh đập, hành hạ vợ một cách tàn nhẫn. Quá uất ức, người vợ nhảy xuống sông để kết liễu cuộc đời. Ít lâu sau, vào một buổi tối, đứa bé bỗng chỉ vào bóng trên tường và bảo rằng cha nó đó. Bấy giờ, người chồng mới hiểu ra và lập đàn chay bạt độ giải oan cho vợ.

Câu chuyện trên đã cho chúng ta thấy rõ rằng: Vợ chàng Trương bị oan ức, chính vì sự nhận xét chủ quan của chàng Trương. Nếu chàng Trương bình tĩnh trưng cầu ý kiến của nhiều người thì tất nhiên sẽ không chủ quankhám phá ra sự thật, không còn gây oan uổng dẫn đến cái chết của vợ mình.
Tóm lại, tập tục dâng hương là một đạo lý truyền thống của dân tộc có từ ngàn xưa, đây là những gia bảo tinh thần đáng quý của tổ tiên để lại cho con cháu kế thừa. Gia bảo này được hấp thụ những tinh hoa của tư tưởng văn hóa Đông phương. Để xác định một lần nữa, dâng hương không phải là một hành động mê tín dị đoan mà là một truyền thống văn hóa tín ngưỡng của dân tộc, chúng ta không nên quên nguồn gốc văn hóa Đông phương. Và đó cũng chính là một trong những biểu tượng văn minh của người Á Đông mà các nước Tây phương khó có thể tìm được giá trị tâm linh ấy trong cuộc sống xã hội của họ.

Riêng đối với Phật giáo, việc dâng hương cúng dường chư Phật mang nhiều ý nghĩa, từ sự hiển lý, không những làm tăng vẻ uy nghiêm, phá tiêu chướng khí nơi đạo tràng, mà còn làm cho chúng ta tỏ ngộ chơn thường, đạt thể tánh tịnh minh. Người Phật tử chúng ta đã hiểu được ý nghĩa giá trị của việc dâng hương theo quan niệm Phật giáo thì hãy cố gắng giữ gìn truyền thốngthực hiện cho kỳ được việc dâng hương cho trang nghiêm và chu đáo, vừa lợi ích cho mình trong việc tu tạo bản thân vừa giáo dục con em của mình trở thành những con người tài đức vẹn toàn để cống hiếnxây dựng một xã hội văn minhhạnh phúc.

 Ngày nay, trong xu thế hướng về nguồn cội để giữ gìn và phát huy những truyền thống bản sắc văn hóa của dân tộc thì tập tục dâng hương lại là một trong những đề tài hướng đến Chân Thiện Mỹ để chúng ta suy gẫm và phát huy nhiều hơn nữa những giá trị văn hóa tâm linh cao quý này.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1530)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1661)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1634)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1037)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1514)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1497)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1679)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1945)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1535)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1362)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1373)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1558)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1151)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1272)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1286)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1697)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1650)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3008)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1826)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1366)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1220)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1281)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1413)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1325)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1925)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1692)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1894)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1824)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2393)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1786)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2130)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2237)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2302)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1855)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1979)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2032)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1958)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2595)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1948)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1892)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1946)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1898)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2172)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2312)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1986)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2099)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1888)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1913)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2421)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2326)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 4002)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2489)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3205)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2471)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2048)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1800)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3313)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2347)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3032)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant