Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thấy Pháp Tức Thấy Như Lai

18 Tháng Ba 201614:52(Xem: 8476)
Thấy Pháp Tức Thấy Như Lai

THẤY PHÁP TỨC THẤY NHƯ LAI

 Mãn Tự    

Thấy Pháp Tức Thấy Như Lai

       

         Trong hai hệ kinh điển Đạo Giác Ngộ mà người tu học đang thực hành theo: một là Nguyên Thủy, một là Đại Thừa; tuy nhiên dù là Đại Thừa hay Nguyên Thủy thì trong chúng ta ai cũng có niềm tin không lay động rằng: đó là những lời của Đấng Giác Ngộ Chánh Đẳng Chánh Giác Thế Tôn Như Lai để lại mà hiện giờ chúng ta gọi là Pháp.

        Tất cả tôn giáo trên hành tinh này, căn bản truyết thuyết giáo lý đều hướng ngoại giới, nên các vị Giáo Chủ dạy tín đồ thực hành tu tập theo để đến được các cõi hay cao hơn nữa là được hòa nhập vào một Đấng nào đó mà vị Giáo Chủ tưởng tượng ra… Thí dụ như Lão Giáo của Trung Hoa thì hòa vào cùng “Đạo”, còn Ấn Giáo thì tiểu ngã nhập vào Đại Ngã, Phạm Thiên, Tự Tại Thiên… Hay Thiên Chúa Giáo thì được về hầu bên Chúa, Thượng Đế, God… Chỉ có Đấng Đại Giác nói rằng “Thấy ‘Pháp’ tức thấy Như Lai”. Như Lai là một trong mười danh hiệu của Thế Tôn. Vậy thế nào là “Pháp” và tu học như thế nào để “thấy Pháp”.

        Các bộ kinh chúng tahiện giờ ‘NIKAYA’ thì gồm có: Tiểu A Hàm, Trung A HàmTrường A Hàm riêng của Nguyên Thủy; cộng thêm mười hai bộ kinh Phương Quảng Đại Thừa. Trường phái Nguyên Thủy thì không chấp nhận kinh Phương Quảng, còn Đại Thừa thì Phương Quảng hay NIKAYA cũng không có gì khác biệt. Tuy nhiên, một nghi tình to lớn đặt ra ở đây là! “Tất cả văn tự trong hai hệ kinh điển có phải là “Pháp” hay không? Nếu là “Pháp” thì những vị làu thông kinh điển tức đã thấy Như Lai? Còn nếu nói không phải “Pháp” tức mang nghiệp phỉ báng kinh.

        “Pháp” là một từ ngữ mà nghĩa thì vô cùng thâm diệu rất dễ lầm lẫn giữa cái thực và giả, giữa phương tiệncứu cánh, giữa cái hiện hữu và phi hiện hữu, nói chung là giữa hai mặt. Nói hai mặt là sự nhận thức lầm lẫn của nhân gian, nhận thức lầm lẫn như thế nào? Thí dụ câu công án “Khi chưa sinh ra ta là gì?”, với vị Giác Ngộ thì câu trả lời là “Chưa từng khác”. Tuy nhiên với nhận thức thì nó lại hiểu rằng “Chưa từng khác là giống”. Thật ra chưa từng khác thì chẳng liên quan gì tới chữ “giống” hết. Tự tánh hiểu biết của nhận thức là do đối đãi mà có, vì vậy những lời lẽ trong kinh mà hiểu theo nhận thức thì tức là từ ngữ, câu văn và nghĩa của đối đãi. Trí thức phát sinh hiểu “Pháp” theo nghĩa đối đãi tức phàm nhân, ngoại đạo, nhị thừacho đến Bồ Tát đệ thất Viễn Hành Địa.

        Cảnh giới người không- ta không, phi thiện ác, Liễu sanh tử thật không thể nào diễn tả bằng ngôn ngữ dù người đó có biện tài như thế nào đi nữa cũng không làm cho người nghe thâm nhập vào được, mà chỉ khiến cho sự hiểu càng thêm vạy vọ mà thôi; cũng như đem màu sắc để nói với người khiếm thị khi mới sinh ra.

        Người không- ta không là cảnh giới tâm tịch tịnh, là thậm thâm tịch tịnh, là vi diệu tâm, là Mâu Ni. Tuy nhiên để viên thành Bồ Đề Chánh Đẳng Chánh Giác thì phải học Bồ Tát Hạnh cho đến khi Tâm thấy hai vô ngã, dứt hai chướng phiền nãosở tri lìa hai sanh tử phần đoạn và biến dịch, dứt hai chủng tử vô minh và ái nghiệp… đó là tri giác của Bậc Chánh Đẳng Giác. Trong các bộ kinh Phương Quảng thường có lời nguyện của các đại Bồ Tát như vầy: “Tất cả chúng sinh trong pháp giới, dù là sắc hay phi sắc, nếu còn một chúng sinh chưa được độ thì Tôi không lấy ngôi Vô Thượng Bồ Đề Chánh Đẳng Chánh Giác”. Thật ra Vô Thượng Bồ Đề không phải lấy hay không lấy, mà khi viên mãn Bồ Tát Hạnh thấy người không- ta không thì đó là Vô Thượng Bồ Đề, cũng như hết phiền não tức Niết bàn, thấy phiền não tức trí tuệ vậy.

        Người không- ta không, phi thiện ác, liễu sanh tửcảnh giới Vô Thượng Bồ Đề; vì vậy nếu nói rằng Đức Thế Tôn Như Laithuyết pháp để lại cho chúng sinh thì mắc ba lỗi. Thứ nhất! Nếu Thế Tôn Như Lai mà có thuyết pháp để lại cho chúng sinh mà bây giờ gọi là Phật Pháp thì Thế Tôn không phải Chánh Đẳng Chánh Giác vì còn ‘Ta’-‘Người’, có Ta thuyết pháp có Người thọ pháp. Thứ hai! Thuộc chủng tánh định kiến chỉ nhận âm thanh sắc tướng mà thôi. Thứ ba! Học vô ngã- vô nhân nhưng không học Bồ Tát Hạnh, chỉ biết được cái lý thô thiển nên không thâm nhập vào thật tướng người không- ta không.

         Như trên đã nói, nếu quyết định rằng Đức Thế Tônthuyết pháp có người nhận pháp là phỉ báng Chánh Đẳng Chánh Giác; còn lại cho rằng tất cả kinh điển từ Phương Quảng cho đến NIKAYA đều không phải là của Đức Thế Tôn thuyết thì phỉ báng Kinh. Vậy phải tu học như thế nào để không bị phỉ báng Chánh Đẳng Chánh Giác cùng Kinh điển.

        Bài kệ trong kinh Kim Cang “Lấy âm thanh sắc tướng để cầu thấy Như Lai, đó là sai đường, không thấy Như Lai thật”. Vậy phải tu học như thế nào để thấy Như Lai thật, mà muốn thấy thật Như Lai thì phải thấy Pháp, vậy gì gọi là Pháp và học Pháp ở đâu?

        Pháp là bao gồm những gì trong vũ trụ từ hữu hình cho đến vô hình, từ có tâm cho đến không tâm, từ có tướng cho đến không tướng…v.v. nói chung đều gọi là Pháp. Nếu nhận biết Pháp đó bằng sáu giác quan thì gọi là “Sở tri”, Pháp sở trihai mặt là “hữu vi- vô vi”. Hữu vi pháp là còn ô nhiễmtri thức hiểu biết của thế gian. Còn vô vi là đã thanh tịnh, là Pháp của các vị Thánh, là đã dày công tu tập loại trừ ô nhiễm, tuy nhiên cả hai đều còn trong vòng đối đãi nên không thể nào thấy “Thật Pháp” được.

        “Thật Pháp” thật ra cũng không ngoài Pháp hữu vi- vô vi, có tâm- không tâm, hữu hình- vô hình, ô nhiễm- thanh tịnh… Nói chung những gì trong Pháp giới từ vô lượng thời gian quá khứ, cho đến vô lượng thời gian vị lai và ngay trong hiện tại cũng là Thật Pháp là Như. Thật Pháp Như đó không thể lấy hay bỏ, không ô nhiễm cũng không thanh tịnh, không thể tu học hay không tu học mà được. Thật Pháp Như đó luôn luôn hiển hiện chưa bao giờ ẩn dấu. Nó không trẻ không già, không lớn không nhỏ, không đến không đi, không củ không mới, không nhất nguyên không nhị nguyên, không tâm không vật, không đối đãi…

        Thật Pháp đã là như vậy thì tại sao từ xưa đến giờ không có mấy người “Thấy biết”. Thật ra không một chúng sinh nào không thấy không biết, vì “chúng sinh chính là Thật Pháp là Như”. Trong kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa, khi Đức Như Lai giảng về Đại Như, Ngài Tu Bồ Đề nương thần lực của Như Lai ngộ ra liền trong Pháp hội đứng lên thưa bạch với Đức Thế Tôn rằng: “Bạch Thế Tôn theo lời giảng của Thế Tôn về Đại Như, con thấy ra rằng: Như Lai Như cùng Tu Bồ Đề Như không hai không khác”. Đức Thế Tôn tán thán rằng: Đúng vậy- Đúng vậy, lại này Tu Bồ Đề, bây giờ Như Lai hỏi Ông tùy theo thấy biết của Ông mà trả lời. Ông thấy rằng: “Như Lai Như cùng Tu Bồ Đề Như không hai không khác; vậy tất cả chúng sinh thì như thế nào”. Ngài Tu Bồ Đề bạch rằng: “Thưa Thế Tôn, Như Lai Như- Tu Bồ Đề Như cùng tất cả chúng sinh Như cũng không hai không khác”.

        Vậy thấy Pháp tức thấy Như Lai thì phải học như thế nào; trong kinh Kim Cang: “Đừng vướng vào dù là nhất thiết pháp đó là Chân Tâm”. Nhất thiết pháp là: Sắc- Thanh- Hương- Vị- Xúc và Pháp. Tuy sáu mà một, tuy một mà sáu vì chưa từng rời nhau; trong sắc thì luôn luôn có thanh hương vị xúc pháp, trong pháp thì cũng có luôn sắc thanh hương vị xúc; còn ba cái hương vị xúc cũng vậy.

        Vướng vào mà không nhận ra như thế nào? Đây là cảnh giới sắp khai mở thật trí thấy chân tâm, tuy nhiên không dễ vượt qua được; ở đây gồm có ba bậc: Thứ nhất là các vị ngoại đạo, tiên nhântrí tuệđịnh lực thâm sâu; Thứ hai là Thinh văn đệ tử của Đức Thế Tôn đã chứng đắc Tứ Thánh đế; Thứ ba là Duyên Giác đã chứng đắc Thập nhị nhân duyên. Ba bậc này vướng vào mà không nhận ra, vì vậy không thấy thật Pháp, mà không thấy thật Pháp thì không thấy Như Lai.

        Thứ nhất! Vì sao các vị ngoại đạo tiên nhântrí tuệđịnh lực thâm sâu mà không nhận ra mình vướng vào? Thế giới Ta bà mà ta đang sống đây là cõi ngũ trược; đó là Kiến trược, kiếp trược, phiền não trược, mạng trượcchúng sanh trược. Vì vậy khi chúng sinh xuất hiệncõi Ta bà thì cũng không ngoài ngũ trược mà có. Tuy nhiên, cõi ngũ trược là đồng mà ngũ trược của chúng sinh là dị; thí dụ như chén, dĩa, nồi, ấm, bình … tuy tên khác nhau nhưng tựu trung cũng làm ra từ đất. Ngũ trược của chúng sinh là: Sắc- thọ- tưởng- hành và thức.

        Cõi nước và chúng sinh tuy thấy dị mà đồng, do đó sắc của chúng sinh thì đồng với kiến trược của cõi nước, thọ thì đồng với kiếp trược, tưởng thì đồng với phiền não trược, hành thì đồng với mạng trược và thức thì đồng với chúng sinh trược của cõi nước. Các vị ngoại đạo tiên nhântrí tuệđịnh lực thâm sâu, còn có cả ngũ thần thông nên các vị đó vượt qua được kiến trược, kiếp trược, phiền não trược của cõi nước, tức là tương ưng với sắc- thọ- tưởng của chúng sinh, còn hai trược sau cùng của cõi nước là mạng trượcchúng sinh trược tức tương ưng với hành và thức của chúng sinh thì không thể đi qua, vì hai trược đó vô cùng thậm thâm vi diệu, tất cả học thuyết Vệ đà cũng từ đó mà phát sinh. Các hành giả đi đến đó bị ‘vướng’ vào mà không biết, cứ nghĩ là đã đến tột cùng và đã chứng nhất thiết trí.

        Hành và Thức thời đại bây giờ nôm na giống như phần mềm và phần cứng của máy tính. Tích chứa vận hành bên trong gọi là hành, hiển hiện ra ngoài cho sáu quan năng nhận biết thì là thức. Các vị ngoại đạo tiên nhân tu hànhđịnh lực thâm sâu nên phiền não không hiện hành, thức phân biệt đi vào vi tế nhỏ nhiệm. Trong định lực đó các hành giả vượt qua nhiều cảnh giới thấy được nhiều cõi thượng diệu. Cũng trong định lực đó hành giả khởi tâm muốn tìm hiểu tận cùng sự vận hành của mạng trược, do sự phân biệt nên bị lạc vào cảnh giới Thần Ngã hay Đại Ngã hay mười triết thuyếtThế Tôn phân tích chỉ dạy trong kinh Lăng Nghiêm.

        Còn chúng sinh trược tức thứa uẩn cũng vậy, các vị đó chỉ loay hoay trong thức thứ bảy tức mạt-na thức trông lên thức thứ tám là A-lại-da lấy đó làm cứu cánh rồi tự cho mình chứng đắc này nọ…v.v. Tu hành đến cảnh giới đó thì đã siêu việt nhân gianthậm thâm thiền định đã gần thấy được Thật Pháp. Kinh Lăng Nghiêm- Đức Thế Tôn tán thán cảnh giới các vị này giống như trời hừng đông chỉ cần một thời gian ngắn nữa thôi là mặt trời tỏa sáng. Năm mươi uẩn ma Đức Thế Tôn chỉ dạy tận tường trong kinh Lăng Nghiêm để chỉ rõ những hành giảthiền định thâm sâu rất dễ “vướng vào” mà không biết.

        Những cảnh giới Hành-Thức đối với nhân gian thật ra khó thể luận bàn đến được, tuy nhiên để thấy được “Thật Pháp” thì không thể nào. Có ba nguyên nhân chính làm chư hành giả không thấy được “Thật Pháp”. Thứ nhất! vì trầm mê trong thiền định; Thứ hai! tự cho mình chứng đắc; Thứ ba! Không có động lưc.

        Thứ nhất! vì sao sự thấy biết trong thậm thâm thiền định không là “Thật Pháp”. Vì còn có định, mà có định thì có loạn. “Thật Pháp” không tạo tác, không làm ra, không định không loạn… là Như Như vì vậy dù có định lực thiền định thậm thâm như thế nào đi nữa cũng không làm sao thấy được. Câu “Cái thanh tịnh bản nhiên vì sao thoắt sanh sơn hà đại địa” của ngài Phú Lâu Na vấn Đức Thế Tôn trong kinh Lăng Nghiêm nói lên điều đó.

        Thứ hai! nghĩ mình chứng đắc. Vì định lực thâm sâu nên tâm phát ra ánh sáng; rồi theo đó lý giải ra nhiều cảnh giới, ra nhiều luận giải, nhiều triết thuyết… rồi tự mình vướng vào những thứ đó như tầm nhã kén tự bọc lấy mình mà không biết; rồi tự mình cho chứng đắc này nọ.

        Thứ ba! Không có động lực. Sự tu hành của các vị đó là cầu đến các cõi, mong muốn hơn người, được sự thù thắng, mong cầu giải thoát cho tự thân, hay có thần thông để mọi người thán phục… Vì cái tâm nhỏ nhoi như vậy nên không làm sao dung chứa được Thật Pháp. “Thật Pháp” thì không đóng khung, không ở nơi này hay nơi khác mà luôn luôn thường hằng, dù là như vậy thì phải có tâm tương ưng mới nhận ra được; bằng không thì cũng như con ếch ở đấy giếng thấy bầu trời không hơn không kém.

        Thế nào là động lực! Đó là Bồ Tát Hạnh; nếu không học Bồ Tát Hạnh, không lấy sự giải thoát- giác ngộ cho chúng sinh làm cứu cánh, không lấy Từ- Bi- Hỷ- Xả làm hành trang, không lấy Bi- Trí- Dũng làm chỉ đạo… thì dù có công phu trong hằng hà sa số kiếp, có thiền địnhthâm sâu đến cỡ nào đi nữa… cũng đừng mong thấy được “Thật Pháp”. Tại sao vậy! Thật Pháp thì không có chung, cũng không có riêng, nên các hành giả chỉ tu riêng cho tự thân thì vĩnh viễn không bao giờ thấy được. Cũng giống như cái lổ của con mọt thì không làm sao dung chứa được quả địa cầu. Quả địa cầu thí dụ cho Thật Pháp, còn các hành giả tu cho tự thân thì ví như cái lổ con mọt. Thật Pháp không phân biệt, luôn luôn bình đẳng; tuy nhiên vì tâm quá nhỏ nên không thể dung chứa, hay Thật Pháp là biển cả, còn tu cho tự thân ví như một giọt nước.

        Các vị Bồ Tát phát tâm tu Bồ Tát Hạnh từ Sơ phát tâm lần lần tiến lên cho đến đệ Thất Viễn Hành Địa, trong thời gian đó hành giả đã vượt qua không biết bao nhiêu gian nan thử thách, bao nhiêu ma chướng cản ngăn, phải từ bỏ phải hy sinh từ bên trong cho đến bên ngoài, đã thuần thục thân tâm, đã trui rèn ý chí vững chắc, đã đủ dũng lực đi về phía trước không còn lui sụt… Tuy là vậy mà khi thấy Thật Pháp tức đệ bát Bất Động Địa thì phải nhờ đến thần lực của Như Lai gia trì mới nhận nổi, còn không chỉ đứng đó hay lại rớt vào nhị thừa mà thôi.

        Tại sao vậy? vì Thật Pháp là: Một tức tất cả, tất cả tức một; khi một Pháp đưa lên thì tất cả đều lên, nó bao hàm tiền tế- hậu tế, vô thủy vô chung luôn cả Pháp giới không có vật nào đi ra ngoài nó. Một như vậy, tất cả Pháp cũng như vậy. Thiền Tông Trung Hoa lấy câu chuyện Đức Thế Tôn đưa cành hoa lên Ngài Ca Diếp mỉm cười là vậy. Hay như khoa học bây giờ nói vật chất bị hút vào lỗ đen thì dù chỉ một hạt bụi thôi thì sức nặng của nó cũng không thể nào cân lường; hay trong kinh Đại Bảo Tích ngài Mục Kiền Liên vận dụng như ý thần thông bay đi vô lượng vô biên thế giới, dù như vậy ngài cũng không thể nào nhận ra được âm thanh Đức Như Lai vang đến bao xa. Vì sao? Với Đức Như Lai khi “Một âm thanh khởi lên tất âm thanh đều khởi”; hay thân tướng Như Lai cũng không thể đo lường, vì với Như Lai khi một sắc khởi lên thì tất cả sắc đều khởi. Trong kinh Hoa Nghiêm nói về hồ A-Nậu-Đạt hay ví dụ lưới đế châu là nói về cảnh giới Thật Pháp này.

        Đó là vì nguyên nhân vì sao các vị Tiên nhân ngoại đạo, A-La-Hán, Bích chi Phật vì tu cho tự thân nên không thể nào thấy Đức Như Lai.

        Thứ hai! Các vị Thinh văn đệ tử Thế Tôn đã vào dòng Thánh, đã chứng đắc Tứ Thánh Đế, đã thấy được lý người không- ta không, tuy nhiên vẫn còn có Pháp nên không thấy Như Lai.

        Thứ ba! Độc Giác Phật đã chứng không người- không ta, đã vượt qua thập nhị nhân duyên, tuy nhiênkhông chấp Pháp nên cũng không thấy Như Lai – Thật Pháp.

        Vậy Pháp Đức Như Lai phải nhận chân như thế nào để không bị phỉ bang kinh điển. Thí dụ! có một căn phòng rộng lớn người ta đặt ở đó một cây đàn dương cầm, rồi sau đó có ba người vào đánh đàn, người thứ nhất chỉtrình độ căn bản, người thứ hai trình độ trung cấp, người thứ ba thuộc loại siêu hạng. Khi người thứ nhất đánh đàn thì người nghe nghĩ rằng âm thanh của cây đàn không có gì đặc biệt; rồi đến người thứ hai đánh đàn thì người nghe lại nghĩ rằng âm thanh của cây đàn đâu có dỡ; và sau cùng người thứ ba đánh đàn thì mọi người nghe say mê không còn bình phẩm âm thanh của cây đàn là dỡ hay là hay nữa. Cũng vậy! Đức Như Lai Chánh Đẳng Chánh Giác với tâm bình đẳng vô phân biệt, Ngài không tâm so đo với chúng sinh này ta cho ít, với chúng sinh kia ta cho nhiều, còn những chúng sinh tôn kính cúng dường hay đệ tử theo ta thì được cho nhiều hơn nữa.

        Đức Thế Tôn Như Lai tuyệt đối không có một Pháp nào để thuyết, nếu có thuyết pháp thì Ngài không phải Chánh Đẳng Chánh Giác; mà đó là sự áp đặt bắt người khác phải học theo mình. Vì vậy những âm thanh phát ra, đó là tưng xứng đúng với tâm lượng mỗi chúng sinh, vì tùy theo trình độ như thế nào thì được phản hồi như thế đó. Đức Như Lai như cây đàn mà âm thanh phát ra là phản ảnh trình độ của chúng sinh, trình độ như thế nào thì nhận lại âm thanh đúng như thế đó. Thấy được như vậy tức thấy Thật Pháp cũng thấy Như Lai.

        Trong bài này không dùng chữ “Trụ” trong “Ưng vô sở trụ” mà thay vào đó là chữ “Vướng”. Nguyên nhân vì một bài pháp trong kinh, đó là câu chuyện Đức Thế Tôn luận pháp với vị Trường Trảo Phạm Chí; buổi luận pháp được chứng kiến bởi vua, quan, đại thần cùng nhiều bậc thông thái, và vật đặt cược của vị Trường Trảo Phạm Chí chính là thủ cấp của mình nếu bị thua, còn nếu Thế Tôn thua thì không được xưng là Nhất Thiết Trí nữa. Câu vấn pháp của vị Phạm Chí cho Đức Thế Tôn là: “Tất cả pháp tôi đều không thọ Cù Đàm nói như thế nào”. Đức Thế Tôn hỏi lại rằng: “Cái không thọ đó ông có thọ hay không?”. Vì câu trả lời đó vị Phạm Chí đầu phục Thế Tôn và xin làm đệ tử.

        Đem câu “Cái không thọ đó ông có thọ hay không” để so sánh với câu “Ưng vô sở trụ” được trì tụng tán dương ca ngợi lên chín tầng mây thì có gì không đúng lắm khi đặt câu hỏi “Cái vô sở trụ đó có trụ hay không?”.

 

 Mãn Tự    

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6347)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
(Xem: 8587)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
(Xem: 5303)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5866)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7517)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6415)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 6001)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4791)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5751)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5924)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6163)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6648)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5979)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
(Xem: 7100)
Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người.
(Xem: 6703)
“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Xem: 4838)
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
(Xem: 4970)
Bài viết này sẽ phân tích Bát Nhã Tâm Kinh dưới cái nhìn bất nhị, hy vọng sẽ làm sáng tỏ bài kinh cốt tủy này như một lối đi của Thiền Tông
(Xem: 7759)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ
(Xem: 9863)
Đa số Phật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
(Xem: 7575)
Đạo Phật khai sinh ở Ấn Độ mà cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ; nhưng nhiệt tâm hoằng pháptruyền bá của thế hệ các tăng sĩ tiền bối...
(Xem: 5362)
Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh”
(Xem: 6461)
Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”.
(Xem: 5467)
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sư Nhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
(Xem: 5883)
Sau khi Đức Phật tịch diệt được khoảng 150 năm thì giáo pháp của Ngài tách ra hai đường hướng:
(Xem: 6449)
Giúp đỡ người nghèo khó là một phẩm tính cố hữu của con ngườixã hội loài người. Phẩm tính này vốn tồn tại từ thời xa xưa và vẫn được duy trì trong xã hội hiện đại.
(Xem: 5735)
Làm Thế Nào Có Được Trí Tuệ Lớn Để Đạt Đến Bờ Giải Thoát - Đó phải là quán chiếu, thực hành, tu tập theo giáo lý bát nhã
(Xem: 6477)
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập họp chung quanh đề tài này.
(Xem: 7097)
Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm.
(Xem: 6320)
Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.
(Xem: 10707)
Bấy giờ bỗng nhiên đức Thế Tôn yên lặng. Một lát sau, Ngài lại nói: “Thôi đủ rồi, Xá-lợi-phất, không cần nói nữa. Vì sao ?
(Xem: 6721)
Trong Phật giáo cũng có giới luật do Đức Phật chế định. Nhưng những luật này không bắt buộc mọi người phải tuân theo mà nó ...
(Xem: 6218)
Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh
(Xem: 6781)
Nguyên lý làm tư tưởng nền tảng cho lập trường Pháp hoa chính là cở sở lý tính duyên khởigiáo nghĩa Phật tính thường trú, được biểu hiện qua...
(Xem: 6160)
Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau.
(Xem: 6535)
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng nhất.
(Xem: 5544)
Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về.
(Xem: 8283)
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
(Xem: 5769)
Dharma tức Giáo Huấn của Đức Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ đều tương liên và tương tác với nhau
(Xem: 7595)
Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp.
(Xem: 6301)
Tất cả những điều này rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho những người của các tôn giáo khác nữa.
(Xem: 9711)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 4109)
Nguyên tác: Toward a Science of Consciousness, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6453)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoátgiác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển...
(Xem: 4203)
Vấn đề [tâm] thức đã hấp dẫn nhiều sự chú ý tuyệt mỹ trong lịch sử dài lâu của tư tưởng triết lý Phật giáo.
(Xem: 4359)
Đối nghịch với khoa học, trong Phật giáo không có sự thảo luận triết lý trọng yếu về vấn đề những sinh vật sống xuất hiện từ vật chất vô tri giác...
(Xem: 4822)
Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5390)
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc qua nhiều đế quốc và triều đại
(Xem: 5347)
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm “mục đích ban vui cứu khổ cho hết thảy chúng sanh”.
(Xem: 5885)
Trong lịch sử nhân loại, tùy theo ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa… mà các thể thức tang nghi cũng như phương cách xứ lý xác thân sau khi chết, được thực hiện với nhiều phương cách đặc thù.
(Xem: 6838)
Người xuất gia đích thực thì không khác gì người cày ruộng, gieo trồng, bón phân để thu hoạch thốc lúa.
(Xem: 5607)
Quan Âm Truyền Thuyết (Tuyển Tập) Diệu Hạnh Giao Trinh Chuyển Ngữ
(Xem: 4549)
Một trong những thứ gây cảm hứng nhất về khoa học là việc thay đổi sự thấu hiểu của chúng ta về thế giới dưới ánh sáng của những khám phá mới.
(Xem: 5361)
Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
(Xem: 5056)
Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.
(Xem: 4408)
“Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
(Xem: 6924)
Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người.
(Xem: 4664)
Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.
(Xem: 8463)
Quyển sách nói về Hoàng Đế A Dục tương đối đầy đủ nhất và những cứ liệu của tác giả Lê Tự Hỷ có tính thuyết phục và độ chính xác rất nhiều...
(Xem: 7265)
Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha,
(Xem: 8413)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng - Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant