Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Độ Người Hấp Hối Theo Kinh Tạng Nikāya

06 Tháng Tư 201612:56(Xem: 7999)
Độ Người Hấp Hối Theo Kinh Tạng Nikāya

ĐỘ NGƯỜI HẤP HỐI THEO KINH TẠNG NIKĀYA

Chúc Phú

Độ Người Hấp Hối Theo Kinh Tạng Nikāya


Hấp hối có nghĩa là gần chết. Có nhiều từ đồng nghĩa cùng biểu đạt cho trạng thái này như đang lâm chung, thời gian cận tử, lúc sắp chết…Độ ở đây mang ý nghĩa chuyển hóa, giúp người vượt qua, giáo hóa cho người.

Có một bài kinh thuộc Trung bộ mang tựa đề Anāthapiṇḍikovāda suttaṃ được hòa thượng Thích Minh Châu dịch là kinh Giáo giới Cấp-cô-độc[1]. Tương đương với bản kinh này trong Hán tạng, thuộc bộ Tăng-nhất-A-hàm, cũng được hòa thượng Thích Nhất Hạnh dịch là kinh Độ người hấp hối[2].

Thực ra, trong bộ Tăng-nhất-A-hàm, bản kinh tương đương kinh Trung bộ này không có tên kinh,  mà được các nhà biên tập đại tạng kinh dánh dấu bản kinh theo số  thứ tự[3]. Trong kinh Trung-A-hàm, cũng tồn tại một bản kinh tương đương kinh Trung bộ, khi dịch ra tiếng Việt, hòa thượng Tuệ Sỹ giữ nguyên tựa đề là kinh Giáo hóa bệnh (教化病)[4].

 Ở đây, theo nguyên tác Pāli hay Hán tạng của bản kinh này, sự gần giống nhau của cụm từ giáo hóagiáo giới của hai bản dịch nêu trên, có lẽ sát nghĩa với từ vāda, có căn ngữ vad, có nghĩa là nói, giảng thuyết[5].

Cần thấy rằng, trong kinh tạng Nikāya, có rất nhiều bài kinh liên quan đến việc giáo hóa người đang hấp hối, từ hàng cư sĩ cho đến bậc xuất gia, và cũng từ đây đã mở ra nhiều phương cách yểm trợ cho người hấp hối. Do vậy, việc gắn thêm tựa đề Độ người hấp hối đối với một bản kinh trong bộ Tăng-nhất-A-hàm thuộc hệ Hán tạng, tương đương với kinh Ānathapiṇḍikovāda suttaṃ dễ tạo ra hiểu lầm về giới hạn các giải pháp độ người hấp hối. Điều này sẽ được chúng tôi làm sáng tỏ hơn trong chuyên khảo dưới đây.

1.    Vai trò quan trọng của tâm thanh tịnh lúc cận tử.

Ngoại trừ các bậc tự chủ lẽ sống chết thì hầu hết chúng sanh đều không biết được thời điểm lâm chung của mình, nên khó có thể tự chủ tâm tư khi hấp hối. Chính vì vậy, đã có những trường hợp chết với lòng sùng kính hoan hỷ và cũng có những trường hợp phải từ bỏ xác thân trong tâm thế đọa đày. Theo kinh Ví dụ tấm vải, Đức Phật dạy rằng, với tâm cấu uế sẽ sanh về cõi ác và cõi lành sẽ mở ra với tâm thanh tịnh, an nhiên[6]. Khảo sát một vài trường hợp đặc biệt được ghi nhận trong kinh tạng Nikāya, đã cho thấy tâm thế của người lâm tử có liên hệ đặc biệt đối với nơi sẽ thác sanh về.

Thứ nhất, đó là trường hợp của tôn giả Pukkusāti. Đã từ lâu, Pukkusāti quy ngưỡng Đức Phật và tự mình xuất gia, tuy chưa chính thức gặp Ngài, dù chỉ một lần. Nhân một chuyến du hành, cả hai cùng lưu trú trong căn nhà của người thợ gốm Bhaggava. Tại đây, Pukkusāti lần đầu tiên hạnh kiến Đức Phật, được nghe Đức Phật thuyết giảngtôn giả đã phát tâm cầu thỉnh giới pháp. Trong thời gian đi tìm y bát để như lý tác pháp thọ giới tỳ-kheo, một con bò cuồng chạy, đoạt mất mạng sống của tôn giả[7]. Đối với trường hợp này, Đức Phật xác chứng rằng Pukkusāti đã chứng đệ tam Thánh quả[8].

Thứ hai, có một phụ nữ nghèo đang rang lúa, biết được tôn giả Kassapa vừa xuất định sau bảy ngày miên mật thiền tư, bà đã phát tâm cúng dường phần lúa ít ỏi của mình cho tôn giả. Sau khi dâng cúng xong và hoan hỷ trở về nhà với thiện sự vừa làm, trên đường đi, tín nữ bất ngờ bị một con rắn độc cắn chết. Do vì chết trong tín tâm, cộng với thiện sự vừa làm, nên tín nữ tức khắc sanh lên cõi trời ba mươi ba với tên gọi mới là thiên nữ Lājā[9].

Thứ ba, thân phụ của tôn giả Soṇa trước đây làm nghề săn bắn, về già ông bỏ nghiệp sát phát tâm xuất giatrở thành một vị tỳ-kheo. Khi lâm chung, những ác nghiệp trong quá khứ diễn ra kinh hoàng làm cho ông sợ hãi tột độ. Thấy vậy, tôn giả Soṇa đã cho người khiêng cha đến gần một bảo tháp, cắt những cành hoa rồi yêu cầu cha hướng tâm cúng hoa lên tượng Phật và cây Bồ-đề. Ngay khi ấy những cảnh tượng kinh hoàng kia biến mất và sau đó ông được sanh Thiên[10].

Thứ tư, theo kinh Trung bộ, Bà-la-môn Dhānañjāni là một người, vừa   ỷ thế vua, bóc lột các Bà-la-môn gia chủ, ỷ thế các Bà-la-môn gia chủ, bóc lột vua[11]. Vị Bà-la-môn này có thiện cảm với tôn giả Sāriputta trong bài thuyết giảng trước đó, mặc dù chưa phát tâm quy y Tam bảo, nhưng lúc lâm chung, Bà-la-môn Dhānañjāni đã cho người mời tôn giả Sāriputta đến thăm mình. Tại tư thất Bà-la-môn Dhānañjāni, tôn giả Sāriputta trầm tư: vị Bà-la-môn này rất luyến ái Phạm thiên giới. Vậy ta hãy thuyết giảng con đường cộng trú với Phạm-thiên[12], để ngay đó, Bà-la-môn Dhānañjāni đã mệnh chung và sanh lên Phạm thiên giới[13].

Thứ năm, trong kinh Đại-bát-Niết-bàn, đã ghi nhận rằng, có bốn thánh tích, gọi là Tứ động tâm (saṃvejanīyāni ṭhānāni cattāri), đó là chỗ Như lai đản sanh, là nơi Như lai chứng Vô thượng Chánh giác, là nơi Như lai thuyết pháp lần đầu tiên và là nơi Như lai nhập Niết-bàn[14]. Nếu như bất cứ ai, trong khi chiêm bái những Thánh tích mà từ trần với tâm thâm tín hoan hỷ, thời những vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung sẽ được sanh cõi thiện thú, cảnh giới chư Thiên[15]. Đây là một câu điều kiện, với lưu ý quan trọng rằng, trong khi chiêm bái những Thánh tích (Cetiyacārikaṁ āhiṇḍantā)[16], mà từ trần (kālaṁ) với tâm thâm tín hoan hỷ (pasannacittā), thì mới được sanh vào cảnh giới chư Thiên (saggaṃ lokaṃ)[17].

Như vậy, tính chất và sự chuyển vận của tâm thức lúc cận tử có ý nghĩa quan trọng trong việc thọ sanh. Ngoài năm nguồn tư liệu nêu trên, thì tác phẩm Thắng pháp tập yếu luận cũng khẳng định rõ việc này[18]. Ở đây, việc giữ gìn tâm thức cận tử an trú trong chánh pháp, bên cạnh nỗ lực chủ yếu của chính cá nhân, thì người thân và bằng hữu, tùy theo hoàn cảnh cụ thể, vẫn có thể trợ duyên, làm cho người lâm tử có một chốn an nhiên để sanh về. Trong kinh tạng Nikāya đã ghi nhận nhiều trường hợp, cũng như nhiều cách thức độ người hấp hối.

2.    Các phương thức độ người hấp hối

Tùy theo nghiệp lực dắt dẫn mà mỗi người có một trạng thái hấp hối khác nhau. Chúng tôi sẽ khái quát và điểm qua những phương thức độ người hấp hối tiêu biểu.

2.1.     Hóa giải ước nguyện lúc lâm chung.

Với một số người, đôi khi ôm ấp những tâm nguyện mà mãi đến cuối đời vẫn chưa thể hoàn thành, và tâm nguyện đó bất chợt được thổi bùng lên trong lúc lâm chung. Trong vai trò yểm trợ người hấp hối, tùy theo từng loại tâm nguyện, tùy theo hoàn cảnh thực tế, chúng ta tìm cách giúp người hấp hối tháo gỡ những tâm nguyện này. Tháo gỡ không mang nghĩa đáp ứng mọi loại tâm nguyện, mà có thể giúp người hấp hối nhận ra những tâm nguyện tốt thì nên làm, và những tâm nguyện sai thì cần phải buông bỏ.

Trước hết, với người cư sĩ tại gia, do đặc thù của đời sống nên cũng có lắm ưu tư lúc cuối đời. Câu chuyện vợ giúp chồng tháo gỡ những lo toan khi bệnh nặng tưởng chừng sắp chết của gia đình Nakula, là một trường hợp đáng suy gẫm. Đặc thù của đoạn hội thoại này là người vợ giả định những ưu tư của chồng, và cũng tự mình đưa ra hướng giải quyết. Xin lược nêu câu chuyện an ủi đó như sau:
1.  Thưa gia chủ, gia chủ có thể suy nghĩ: "Nữ gia chủ, mẹ của Nakula, sau khi ta mệnh chung, không có thể nuôi dưỡng các con và duy trì nhà cửa"

    -  Thưa gia chủ, tôi khéo léo dệt vải và chải lông cừu. Thưa gia chủ, sau khi gia chủ mệnh chung, tôi có thể nuôi dưỡng các con và duy trì nhà cửa.
2.   Thưa gia chủ, gia chủ có thể suy nghĩ như sau: "Nữ gia chủ, mẹ của Nakula, sau khi ta mệnh chung, sẽ đi đến một gia đình khác"

  - Thưa gia chủ, chớ có suy nghĩ như vậy! Thưa gia chủ, gia chủ cũng đã biết, trong mười sáu năm chúng ta sống làm người gia chủ, tôi đã sống thực hành Phạm hạnh như thế nào.
3.    Thưa gia chủ, gia chủ có thể suy nghĩ như sau: "Nữ gia chủ, mẹ của Nakula, sau khi ta mệnh chung, sẽ không còn muốn yết kiến Thế Tôn, sẽ không còn muốn yết kiến chúng Tăng"

-    Thưa gia chủ, chớ có suy nghĩ như vậy! Sau khi gia chủ mệnh chung, tôi sẽ muốn yết kiến Thế Tôn nhiều hơn, sẽ muốn yết kiến chúng Tăng nhiều hơn.
4.    Thưa gia chủ, gia chủ có thể suy nghĩ như sau: "Nữ gia chủ, mẹ của Nakula, sau khi ta mệnh chung, sẽ không giữ giới một cách đầy đủ"

-      Thưa gia chủ, chớ có suy nghĩ như vậy! Thưa gia chủ, cho đến khi nào, các nữ đệ tử gia chủ mặc áo trắng của Thế Tôn còn chứng được nội tâm tịnh chỉ, tôi sẽ là một trong những vị ấy.
5.    Thưa gia chủ, gia chủ có thể suy nghĩ như sau: "Nữ gia chủ, mẹ của Nakula, trong Pháp và Luật này không đạt được thể nhập, không đạt được an trú, không đạt được thoải mái, không vượt khỏi nghi hoặc, không rời được do dự, không đạt được vô úy, còn phải nhờ người khác sống trong lời dạy đức Bổn Sư".

-    Thưa Gia chủ, chớ có suy nghĩ như vậy! Thưa Gia chủ, cho đến khi nào, các nữ đệ tử gia chủ mặc áo trắng của Thế Tôn, trong Pháp và Luật này đạt được thể nhập, đạt được an trú, đạt được thoải mái, vượt khỏi nghi hoặc, rời được do dự, đạt được vô úy, không phải nhờ người khác sống trong lời dạy đức Bổn Sư, tôi sẽ là một trong những người ấy[19].

Sau những lời động viên, an ủi chuyên chở chất liệu từ mẫn của người phối ngẫu, đặc biệt là bảy lần nhắc lại lời Đức Phật: Thế Tôn quở trách người khi mệnh chung còn mong cầu ái luyến, cha của Nakula đã bất ngờ lành bệnh và vượt qua cái chết. Khi biết được câu chuyện này, Đức Phật đã tán thán Nakulamātā, xem bà là một trong mười nữ đệ tử tại gia nói chuyện thân mật một cách tối thắng[20].

Trong những trường hợp khác, người yểm trợ cùng tùy theo ước nguyện của người lâm chung để an ủi. Chẳng hạn như:

-    Nếu vị ấy nói: "Tôi còn có lòng thương nhớ cha mẹ", thời nên nói với vị ấy như sau: "Thưa Tôn giả, Tôn giả thế nào cũng phải chết. Dầu Tôn giả có lòng thương nhớ cha mẹ, Tôn giả cũng sẽ chết. Dầu Tôn giả không có lòng thương nhớ cha mẹ, Tôn giả cũng sẽ chết. Vậy tốt hơnTôn giả hãy từ bỏ lòng thương nhớ đối với cha mẹ của Tôn giả".

-     Nếu vị ấy nói: "Tôi có lòng thương nhớ vợ con", thời vị ấy cần phải được nói như sau: "Tôn giả thế nào cũng chết. Dầu Tôn giả có lòng thương nhớ vợ con, Tôn giả cũng sẽ chết. Dầu Tôn giả không có lòng thương nhớ vợ con, Tôn giả cũng sẽ chết. Vậy tốt hơnTôn giả hãy từ bỏ lòng thương nhớ đối với vợ con của Tôn giả".[21]

 Từ những trường hợp cụ thể này, liên hệ đến hoàn cảnh thực tế của người cư sĩ thời nay, chúng ta có thể linh động về phương diện nội dung, nhằm hóa giải ưu tư của người sắp mất một cách hiệu quả nhất.

Với người xuất gia, đành rằng không có những lo toan như thế tục, nhưng đôi khi cũng có những tâm nguyện vi tế, và chúng đã tồn tại ngay cả lúc lâm chung. Đoạn hội thoại trong kinh Tương Ưng (S.iii,119), giữa Đức Phật và tỳ-kheo Vakkali đang hấp hối, tiêu biểu cho trường hợp này:

 - Này Vakkali, ông có gì phân vân, hối hận không?

- Bạch Thế Tôn, thật sự con có nhiều phân vân, có nhiều hối hận!

- Này Vakkali, ông có gì tự trách mình về giới luật không?

- Bạch Thế Tôn, con không có gì tự trách mình về giới luật.

- Này Vakkali, nếu ông không có gì tự trách mình về giới luật, vậy ông có gì phân vân, có gì hối hận?

-- Đã từ lâu, bạch Thế Tôn, con muốn đến để được thấy Thế Tôn. Nhưng thân con không đủ sức mạnh để được đến thấy Thế Tôn.

- Thôi vừa rồi, này Vakkali, có gì đáng thấy đối với cái thân hôi hám này. Này Vakkali, ai thấy Pháp, người ấy thấy Ta. Ai thấy Ta, người ấy thấy Pháp. Này Vakkali, đang thấy Pháp, là thấy Ta. Đang thấy Ta, là thấy Pháp[22].

Từ câu chuyện trên đã cho thấy, Đức Phật luôn quan tâm và lắng nghe tâm nguyện của chúng sanh nói chung lúc cuối đời. Trong trường hợp tỳ-kheo Vakkali, Đức Phật đã chỉ ra tâm nguyện đó vẫn còn vương mùi tục lụy, và Ngài đã trang bị một nhận thức mới cho tỳ-kheo Vakkali.

Có thể nói, quan tâm đến tâm nguyện lúc cuối đời của người hấp hối là một phương cách sống đượm tính nhân văn, làm cho đời sống không có nhiều dư tàn sau khi quá vãng. Tùy theo từng loại tâm nguyện lúc cuối đời của từng người mà định hình nên những phẩm tính giá trị của đời sống. Ngay như triết gia Socrates (470-399 B.C), sau khi uống ly thuốc độc của thể chế dân chủ Athena, trước thời khắc biệt ly, còn dặn dò học trò hãy thay thầy trả dùm con gà trống mà mình còn nợ Aesculapius[22].

Trong các loại tâm nguyện của người sắp mất, việc nhận ra đâu là tâm nguyện chính đáng và ngược lại, đòi hỏi người yểm trợ phải có một tuệ giác nhất định. Mức độ tuệ giác của người yểm trợ đôi khi góp phần quyết định sự đọa lạc hay thăng hoa cho người hấp hối.

Như vậy, việc tháo gỡ hợp lý những tâm nguyện lúc cuối đời của người hấp hối, là một trong những giải pháp trợ tử mang tính nhân văn, mà chính bản thân Đức Phật đã từng thực hiện.

2.2.    Trang bị nhận thức về Tứ bất hoại tínTam pháp ấn.

Thân vương Mahānāma là người khơi mở nhiều nhân duyên để Đức Phật có nhiều bài pháp quan trọng dành cho hàng cư sĩ[24]. Ông có nhiều trăn trở gắn với đời sống thực tế của người tại gia mà mỗi khi gặp Phật, ông đều đem ra thưa hỏi. Câu hỏi dưới đây của ông là một trong những minh chứng đó:

- Bạch Thế Tôn, một cư sĩ có trí bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh, cần phải được một cư sĩtrí giáo giới như thế nào?

Từ câu hỏi này, Đức Phật đã chỉ dạy một phương pháp quan trọng có thể sử dụng độ người hấp hối:

Này Mahānāma, một cư sĩ có trí bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh, cần phải được an ủi với bốn pháp an ủi như sau (assāsaniya dhamma):

Tôn giả hãy yên tâm, với lòng tịnh tín bất động của Tôn giả đối với đức Phật: "Đây bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn".

Tôn giả hãy yên tâm, với lòng tịnh tín bất động của Tôn giả đối với Pháp: “Pháp do Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, có hiệu quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu”.

Tôn giả hãy yên tâm, với lòng tịnh tín bất động của của Tôn giả đối với chúng Tăng: "Diệu hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Trực hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Ứng lý hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Chơn chánh hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám chúng. Chúng đệ tử của Thế Tôn là đáng cung kính, đáng cúng dường, đáng tôn trọng, đáng được chấp tay, là phước điền vô thượng ở đời"

Tôn giả hãy yên tâm, với các giới của Tôn giả được các bậc Thánh ái kính không bị phá hoại, không bị đâm cắt, không bị nhiễm ô, không bị uế nhiễm, đem lại giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp thủ, đưa đến Thiền định.

Một cư sĩ có trí bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh, này Mahānāma, phải được một cư sĩtrí giáo giới với bốn pháp an ủi này. Cần phải nói như vậy.[25]

Bốn pháp này còn được gọi là Tứ bất hoại tín (bốn niềm tin bất hoại), Tứ chủng chứng tịnh (bốn niềm tin trong sạch tuyệt đối: cattaro aveccappasādā), tức là tin Phật, tin Pháp, tin Tăng và tin Giới. Thành tựu được bốn pháp này, người hấp hối sẽ không bị đọa lạc, chứng quả Dự lưu và sẽ thiên về Niết-bàn, hướng về Niết-bàn, xuôi về Niết-bàn[26].

Thông thường, tứ bất hoại tín do tha nhân thuyết giảng cho người lâm chung, tuy nhiên, đối với cư sĩ Citta là một trường hợp đặc biệt.

Theo kinh Tương Ưng (S.iv, 302), trong thời khắc mệnh chung, cư sĩ Citta được chư Thiên vây quanh trợ niệm, đó là các vị chư Thiênhoa viên, chư Thiên ở rừng, chư Thiên ở cây, chư Thiên ở rừng các dược thảo, các cây trong rừng[27]. Cuộc trao đổi giữa các vị chư Thiêncư sĩ Citta rất mực kỳ thú:

-     Này gia chủ, hãy nguyện: 'Trong tương lai, ta sẽ thành vua Chuyển luân Thánh vương'". Cho nên tôi (Citta – người viết chú) mới trả lời với họ: 'Cái ấy là vô thường, cái ấy là không thường hằng, cái ấy cần phải bỏ đi và vượt qua'"[28].

Sau đó, mặc dù nằm trên giường bệnh, nhưng trước yêu cầu của đông đảo chư Thiênbà con thân quyến, cư sĩ Citta đã giảng về niềm tin vững chắc vào ba ngôi Tam-bảo và sau đó còn căn dặn: Tất cả những gì có thể đem cho trong gia tộc, tất cả phải đem cúng dường, phân phát cho những vị trì giới và có thiện tánh[29]. Khi gia chủ Citta khiến cho các bạn bè thân hữu, các bà con huyết thống có tịnh tín đối với đức Phật, đối với Pháp, đối với chúng Tăng và khuyên họ bố thí, vị ấy liền mệnh chung[30].

Từ đây có thể thấy, mặc dù đang hấp hối, nhưng trước cầu thỉnh của chư Thiênthân quyến, cư sĩ Citta vẫn nỗ lực thuyết bài pháp cuối cùng. Chính vì vậy, cư sĩ Citta được Đức Phật tán thán là một trong mười vị nam cư sĩ tối thắng, với mỹ hiệu: thuyết pháp tối thắng[31].

Trong đời sống ngày nay, để đạt được niềm tin bất động đối với Tam bảothánh giới là điều rất khó. Tuy nhiên, từ lời dạy của Đức Phật, từ gương sáng của các vị cưtối thắng nêu trên, chúng ta có thể vận dụng bằng nhiều cách để người hấp hối hoàn thiện, cũng cố phẩm chất đạo đức cơ bản của mình (ngũ giới, bồ-tát giới, tỳ-kheo giới…), và giữ vững niềm tin Tam bảo đến mức cao nhất có thể. Trong thực tế hiện nay, nội dung tương tự vẫn được các truyền thống Phật giáo vận dụng trợ niệm cho người hấp hối, nhưng mang nhiều biến tấu khác biệt so với kinh văn.

Bên cạnh việc cũng cố và trang bị cho người hấp hối Tứ bất hoại tín; trong nhiều trường hợp, Đức Phật còn triển khai nội dung Tam pháp ấn khi ai đó đang lâm chung.

Kinh Tương Ưng (S.iv, 46) ghi, có một vị tỳ kheo bị trọng bệnh, ít người biết đến, được Đức Phật quang lâm vấn bệnh. Ngài hỏi:

Ông nghĩ thế nào, này Tỷ-kheo, mắt là thường hay vô thường?

- Là vô thường, bạch Thế Tôn...

- Tai... Mũi... Lưỡi... Thân... Ý là thường hay vô thường?

- Là vô thường, bạch Thế Tôn.

- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

- Là khổ, bạch Thế Tôn.

- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?

- Thưa không, bạch Thế Tôn.

- Thấy vậy, này Tỷ-kheo, bậc Đa văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với mắt... "... không còn trở lui trạng thái này nữa".

Thế Tôn thuyết như vậy, Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy. Và trong khi lời dạy này được nói lên, Tỷ-kheo ấy khởi lên pháp nhãn ly trần vô cấu: "Phàm cái gì sanh khởi, tất cả đều chịu sự đoạn diệt"[32].

Có thể thấy, nội dung giáo giới cho vị tỳ-kheo đang lâm bệnh nặng trong đoạn kinh trên chính là Tam pháp ấn. Nhận thức đầy đủ về Tam pháp ấn giúp cho người hấp hối không còn tham lam hay chấp thủ về thân. Vì càng ít luyến ái thì càng vơi chấp thủ. Mức độ giải thoát của mỗi chúng sanh chủ yếu căn cứ vào hai tiêu chí này. Theo khảo sát, Tam pháp ấn được trình bày sinh động và đầy đủ nhất trong bài kinh Vô ngã tướng (Anattalakkhaṇa Suttaṃ). Đây là bài pháp thứ hai mà Đức Phật thuyết giảng cho năm anh em Kiều-trần-như sau khi thành đạo[33].

Từ cơ sở này cho thấy, trong việc yểm trợ cho người hấp hối thì có thể khai triển giáo nghĩa Tứ bất hoại tín hay Tam pháp ấn, hoặc trì tụng bài kinh Vô ngã tướng nhiều lần. Sau khi đối khảo nhiều bản dịch khác nhau, chúng tôi cho rằng bản dịch kinh Vô ngã tướng theo dạng thi kệ (gātha) trong Nghi thức tụng niệm của hệ phái Phật giáo khất sĩ Việt Nam, rất phù hợp trong việc trợ duyên cho người hấp hối[34].

2.3 Vài phương cách trợ tử không thông dụng.

Không chấp thủ (na upādiyissāmi)[35]

Đại thương gia Anāthapiṇḍika là người trưởng thành và tắm gội trong Phật  pháp, có đến 18 bản kinh được ghi nhận liên quan đến ông[36]. Khi lâm chung, ông được ngài Sāriputta thuyết giảng bằng một bài pháp có nội dung sâu sắc.

Bài thuyết giảng của tôn giả Sāriputta mang tên Anāthapiṇḍikovāda suttaṃ, được hòa thượng Thích Minh Châu dịch là kinh Giáo giới Cấp-cô-độc, là kinh số 143, thuộc Trung bộ.

Do vì thương gia Anāthapiṇḍika đã thành tựu quả vị Dự lưu trong cuộc hội kiến với Đức Phật ở thành Rajaghaha[37], chính vì vậy bài thuyết giảng của tôn giả Sāriputta dành cho Anāthapiṇḍika khi ông lâm chung, chỉ tập trung vào một vấn đề quan trọng duy nhất, đó chính là quan điểm không chấp thủ (na upādiyissāmi). Suốt cả bài kinh, cụm từ không chấp thủ được nhắc đến 48 lần.

 Theo kinh, sau khi thăm hỏi tình trạng bệnh tình, tôn giả Sāriputta lần lượt khuyên bảo Anāthapiṇḍika không nên chấp thủ sáu căn, sáu trần, sáu thức…cho đến không nên chấp thủ ngũ đại, tứ thiền, cả thế giới này hay thế giới khác. Bài thuyết giảng của tôn giả Sāriputta xoay quanh chủ điểm chính là không chấp thủ (na upādiyissāmi), với những dẫn dắt và liên hệ sinh động.

Sau khi nghe xong bài thuyết pháp, thương gia Anāthapiṇḍika đã ngạc nhiên thưa với tôn giả Sāriputta:

- Dầu cho bậc Đạo sư được con hầu hạ đã lâu và dầu con đã từng gần gũi các vị Tỷ-kheo tu tập ý lực, con chưa từng được nghe một thời thuyết pháp như vậy.

- Này cư sĩ, thuyết pháp như vậy không nói cho các hàng cư sĩ mặc áo trắng. Này cư sĩ, thuyết pháp như vậy nói cho các hàng xuất gia.

- Vậy thưa Tôn giả Sāriputta, hãy thuyết pháp như vậy cho hàng cư sĩ mặc áo trắng. Thưa Tôn giả Sāriputta, có những thiện gia nam tử sanh ra với cấu uế không nhiều, nếu không được nghe pháp, sẽ bị đọa lạc; nhưng nếu được nghe, họ có thể biết được (Chánh) pháp[38].

Quả đúng như tôn giả Sāriputta đã nói, quan điểm không chấp thủ được Đức Phật dạy cho tỳ-kheo vô danh khi vị ấy lâm bệnh. Kinh Tương Ưng (S.iv, 47) ghi:

Này Tỷ-kheo, nếu ông không hiểu pháp Ta dạy về mục đích thanh tịnh trì giới, thời này Tỷ-kheo, ông hiểu pháp Ta dạy như thế nào?

- Bạch Thế Tôn, con hiểu pháp Thế Tôn dạy là với mục đích tịch tịnh hoàn toàn, không chấp thủ.

- Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Lành thay, này Tỷ-kheo! Ông hiểu pháp Ta dạy là với mục đích tịch tịnh hoàn toàn, không có chấp thủ[39].

Quan điểm không chấp thủ còn được Đức Phật đặc biệt nhấn mạnh trong trường hợp lâm chung hết sức đặc dị của tôn giả Channa, do vì bệnh tật quá đau đớn nên tôn giả đã dùng dao tự sát. Ngài Sāriputta nghi vấn về sanh thúđời sau của tôn giả Channa, nên được Đức Phật giải thích:

Này Sāriputta, với sự việc như vậy, Ta không nói Channa là có lỗi. Này Sāriputta, ai bỏ thân này và chấp thủ thân khác; người ấy, Ta nói là có lỗi. Nhưng Tỷ-kheo Channa thời không vậy[40]. Sở dĩ Đức Phật khẳng định như vậy vì trước đó, tôn giả Channa đã thành tựu tuệ tri: Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi[41].

Việc nỗ lực tu tập để thành tựu tâm không chấp thủ (na upādiyissāmi) mang một ý nghĩa quan trọng lúc còn sống và ngay cả khi hấp hối. Vì khi chấp thủ bị bẻ gãy, thì chuỗi 12 nhân duyên sẽ rời ra, và người hấp hối sẽ chạm ngõ giải thoát.

Sáu minh phần pháp (cha vijjā bhāgiye dhamme)

Cư sĩ Dīghāvu là một người thân cận Tam bảo, đã đắc quả Dự lưu. Khi bệnh nặng, biết mình không qua khỏi, ông đã nhờ cha tên là Jotika đến tinh xá Trúc-lâm cầu thỉnh Đức Phật quang lâm tư gia vì lòng từ mẫn.

Sau khi thăm hỏi bệnh tình, Đức Phật trùng tuyên Tứ bất hoại tín mặc dù cư sĩ Dighāvu đã thành tựu trước đó. Sau đây, Đức Phật dạy thêm:

- Do vậy, này Dīghāvu, sau khi ông đã an trú trong bốn Dự lưu phần này, ông hãy tu tập thêm sáu minh phần pháp (cha vijjā bhāgiye dhamme).

- Ở đây, này Dīghāvu, ông hãy trú, quán vô thường trong tất cả hành, quán khổ tưởng trong vô thường, quán vô ngã tưởng trong khổ, quán tưởng đoạn tận, quán tưởng ly tham, quán tưởng đoạn diệt[42].

Sáu minh phần pháp này có thể tìm thấy rải rác trong kinh Tăng Chi, từ chương 6 pháp đến chương 9 pháp. Trong kinh Phúng tụng số 33, thuộc Trường Bộ, sáu minh phần pháp này còn được gọi là Sáu quyết trạch phần tưởng: Vô thường tưởng, khổ tưởng trên vô thường, vô ngã tưởng trên khổ, đoạn tưởng, vô tham tưởng, diệt tưởng[43].

Sáu minh phần pháp này là pháp tu bậc cao, phần lớn chỉ dành cho giới xuất gia hoặc bậc thượng căn thượng trí. Chỉ xét riêng minh thứ nhất, tức quán vô thường trong tất cả hành, đã cho thấy điều này:

Thật vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào thấy bất cứ hành nào là vô thường, sẽ thành tựu được nhẫn nhục tùy thuận, sự kiện này có xảy ra. Thành tựu nhẫn nhục tùy thuận, sẽ nhập vào chánh tánh quyết định, sự kiện này có xảy ra. Nhập vào chánh tánh quyết định, sẽ chứng ngộ quả Dự lưu, quả Nhất lai, quả Bất lai, hay quả A-la-hán, sự kiện này có xảy ra[44].

 Ở đây, riêng trong trường hợp Đức Phật dạy cho cư sĩ Dīghāvu sáu minh phần pháp (cha vijjà bhàgiye dhamme), vì ông ta là một trong những đệ tử tại giacăn tánh thông tuệ, được Đức Phật xác tín:

 Hiền minh, này các Tỷ-kheo, là cư sĩ Dīghāvu! Cư sĩ Dīghāvu thực hiện các pháp và tùy pháp, không làm phiền nhiễu Ta với những kiện tụng về pháp. Cư sĩ Dīghāvu, sau khi đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh nhập diệt ở tại đấy, không còn trở lui thế giới này nữa[45].

Từ trường hợp lâm chung của thương gia Anāthapiṇḍika và cư sĩ Dīghāvu, đã xác tín rằng, thời Phật tại thế, có nhiều cư sĩ tại gia với căn cơ ưu thắng. Không những vậy, căn cứ vào nội dung thuyết giảng dành cho hai vị cưđặc biệt này đã cho thấy, đây là những pháp tu tập bậc cao, không thể dễ dàng vận dụng trợ niệm cho số đông quần chúng.

3.    Kết luận.

Theo quan điểm Phật giáo, nghiệp có thể thay đổi. Dù chỉ thay đổi nghiệp lực một chút nhỏ nhoi, nhưng theo chiều hướng tích cực, thì người đệ tử Phật vẫn nỗ lực thực hành. Trong kinh Pháp cú, Đức Phật đã khích lệ việc này[46]. Việc độ người hấp hối tuy chỉ mang tính trợ duyên nhưng cũng nằm trong ý nghĩa đó.

Theo tư liệu đã dẫn, việc độ người hấp hối đúng với nghĩa đen của cụm từ này. Tức là những hoạt động trợ niệm diễn ra khi người ấy còn sống, khi các chỉ số sinh tồn (vital signs) còn được ghi nhận, khi người lâm tử còn có ý thức phản hồi. Kinh văn Nikāya không ghi nhận hoạt động trợ niệm sau khi chết.

Từ những khảo sát ở trên cho thấy, có năm nội dung cơ bản trong việc trợ duyên cho người hấp hối. Thứ nhất, lắng nghe, an ủitháo gỡ tâm tư của người sắp chết. Thứ hai, trùng tuyên những giới luật mà người sắp chết đã thọ, cũng cố những sút kém về giới luật, nếu có, bằng các hình thức sám hối[47]. Thứ ba, định hướng người sắp mất vững niềm tin Tam bảo. Thứ tư, triển khai giáo nghĩa Tam pháp ấn, hoặc trì tụng bài kinh Vô ngã tướng nhiều lần. Thứ năm, bằng những dẫn dụ cụ thể, khuyên người hấp hối từ bỏ luyến áichấp thủ. Đây là những phương cách độ người hấp hối được ghi nhận từ kinh tạng Nikāya.

Độ người hấp hối tuy chỉ là phương cách mang tính trợ duyên, nhưng do chuyên chở chất liệu thương yêu, nên đã tạo ra những giá trị đặc thù của Phật giáo.


[1] Kinh Trung Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2012, tr.601-606.

[2] http://langmai.org/tang-kinh-cac/kinh-van/kinh-van/kinh-do-nguoi-hap-hoi

[3]大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第四十九, 非常品, 八.

[4] Kinh Trung A Hàm, tập 1, Tuệ Sỹ dịch và chú, NXB. Phương Đông, 2009, tr. 263-279.

[5] M.Monier-Williams. A Sanskrit English Dictionary. Springfield, VA: Nataraj Books, 2014. p.939.

[6] Nguyên văn: Cõi ác chờ đợi một tâm cấu uế…Cõi thiện chờ đợi một tâm không cấu uế. Xem, Kinh Trung Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2012, tr.61.

[7] Kinh Trung Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2012, tr. 588.

[8] Ibid.

[9] Tích truyện Pháp, tập 2, Viên Chiếu dịch, NXB. Tôn giáo, 2012, tr.135-137

[10] Pa-Auk Tawya Sayadaw. The Workings of Kamma. Helicon Publishing and Penguin Books Ltd: 1996, p.196.

[11] Kinh Trung Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2012, tr.225.

[12] Con đường cộng trú với Phạm-thiên là phải hoàn thiện bốn phẩm chất cao quý: Từ, Bi, Hỷ và Xả. Ibid, tr. 234

[13] Kinh Trung Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2012, tr. 235

[14] Kinh Trường Bộ, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 328.

[15] Ibid.

[16] Tỳ-kheo Thanissaro dịch cụm từ này là: on such a pilgrimage. Tác giả Maurice Walshe dịch là: while making the pilgrimage. Cf: The Long Discourses of the Buddha -Maha-parinibbana sutta. trans. Maurice Walshe. Boston: Wisdom Publications, 1995.  p.264.

[17] Có ba yếu tố hiện diện đầy đủ mới được sanh thiên giới. Thứ nhất là trong khi chiêm bái thánh tích, thứ hai là với tâm thâm tín cao độ và thứ ba chết trong khi đang chiêm bái. Vì lẽ, nếu như chiêm bái thánh tích, nhưng trong tâm không khởi lòng thâm tín, dù có chết tại chỗ ấy thì cũng không thể sanh thiên. Trong một trường hợp khác, đã từng chiêm bái thánh tích và đã khởi tín tâm ngay khi đó, nhưng khi lâm chung mà tâm tư tán loạn, thì cũng không thể sanh thiên.

[18] Theo thắng pháp tập yếu luận, HT. Thích Minh Châu dịch và giải, chương năm, nghiệp, nghiệp tướng và thú tướng; thì: Gatinimitta (Thú tướng) là một hình tướng gì của cảnh giới mà người ấy sắp được tái sanh, một sự kiện luôn luôn xảy ra với người sắp chết. Nếu là một hình tướng không tốt đẹp, thời có thể thay đổi chúng bằng cách ảnh hưởng đến tư tưởng của người sắp chết, và như vậy thiện niệm của người ấy biến thành cận tử và thay thế cho sanh nghiệp của người ấy.

[19] Kinh Tăng Chi Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr. 43-45.

[20] Kinh Tăng Chi Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr.63.

[21] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013,  tr. 771-772.

[22] Ibid,  tr. 743-744.

[23] The Phaedo of Plato. Harold Williamson, B.A Ed. New Yord: The Macmillan Company, 1904. p. 245. Cf: Pay a cock to Aesculapius.

[24] Nhờ ông, Đức Phật đã định nghĩa thế nào là cư sĩ: Bạch Thế Tôn, cho đến như thế nào là người cư sĩ? - Này Mahānāma, khi nào quy y Phật, quy y Pháp, quy y chúng Tăng, cho đến như vậy, này Mahānāma, là người cư sĩ. Xem, Kinh Tăng Chi Bộ, tập 3, chương 8 pháp, phẩm Gia chủ, kinh Thích tử Mahānāma, VNCPHVN, 1996, tr. 584.

[25] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013,  tr. 771

[26] Ibid,  tr. 744.

[27] Ibid,  tr. 353.

[28] Ibid, tr. 354

[29] Quan điểm chia sẽ vật dụng của người hấp hối, hoặc vì người hấp hối bố thí tài sản thường xuất hiện trong kinh điển Bắc truyền. Đây là trường hợp hiếm hoi xuất hiện trong kinh tạng Nikāya.

[30] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 354 .

[31] Kinh Tăng Chi Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr.62.

[32] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013,  tr. 143.

[33] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 1, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013,  tr.694-696.

[34] http://daophatkhatsi.vn/giao-phap-khat-si/kinh-tung/2841-kinh-vo-nga-tuong.html

[35] http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sltp/MN_III_utf8.html#pts.258

[36] Nyanaponika Thera & Hellmuth Hecker. Great Disciple of the Buddha. Bhikkhu Bodhi, Edited. Boston: Wisdom Publications, 2003. p. 360

[37] Cullavagga, chương Sàng tọa thứ 6, tụng phẩm thứ nhì, câu 250. Tỳ kheo Indacanda Nguyệt Thiên dịch.

[38] Kinh Trung Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2012, tr.604-605

[39] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr.143-144.

[40] Ibid,  tr. 153

[41] Ibid,  tr. 152.

[42] Ibid,  tr.724.

[43] Kinh Trường Bộ, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 674.

[44] Kinh Tăng Chi Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr.164.

[45] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013,  tr.724.

[46] Nguyên văn: Chớ chê khinh điều thiện./ Cho rằng "Chưa đến mình”./ Như nước nhỏ từng giọt./ Rồi bình cũng đầy tràn./ Người trí chứa đầy thiện./ Do chất chứa dần dần. Xem, Kinh Tiểu Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr.59.

[47] Trong tang lễ hiện nay của người xuất gia, có mục Bố-tát, tức tụng giới. Thực ra, việc tụng giới sẽ có ý nghĩa hơn nếu như người hấp hối còn nghe được giới pháp. Vì khi ấy, tâm của người hấp hối có khả năng chuyển biến tích cực và đó là mục tiêu chính của hoạt động trợ niệm. Trong tang lễ của người tại gia không có mục tụng giới. Theo chúng tôi, nếu như cư sĩ đó đã từng thọ Tam quy và giữ năm giới, thì cần nên nhắc lại khi người ấy hấp hối. Trong trường hợp người hấp hối tự nhận giới bị sút kém, thì nên hướng họ thành tâm sám hối. Ngay như Devadatta, tuy phạm trọng tội, nhưng nhờ tâm niệm sám hối lúc cuối đời, nên đã mở ra con đường bước lên Thánh quả.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11496)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
(Xem: 12666)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12277)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11058)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10931)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13387)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11808)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13692)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11926)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11191)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12240)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12431)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20625)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12456)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12475)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11743)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11615)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22452)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13601)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29730)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11566)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16774)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12027)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16871)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12095)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17948)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12678)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13198)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14795)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22662)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10609)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14084)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13896)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13744)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13884)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13965)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14851)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13885)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18442)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22834)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15418)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17347)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22433)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14284)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12615)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11212)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17789)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13225)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13131)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18829)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17202)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13545)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12944)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14718)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14688)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15900)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13540)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27463)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13271)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16748)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant