Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đôi Lời Về Xá Lợi Phật

10 Tháng Tư 201609:47(Xem: 9963)
Đôi Lời Về Xá Lợi Phật

 Đôi Lời Về Xá Lợi Phật

Lama Zopa Rinpoche
Hồng Như

Đôi Lời Về Xá Lợi Phật


Nói chung, không dễ gì lưu lại ngọc xá lợi, không dễ gì thành tựu đạo quả qua quá trình tu chứng với những kiếp tái sinh nối tiếp trong thiện đạo. Muốn được như vậy, phải phát nguyện rộng lớn mãnh liệt, phải giữ giới hạnh thanh tịnh trong sáng qua nhiều kiếp tái sinh tiếp nối, rồi mới có thể hội đủ nhân duyên lưu ngọc xá lợi. Ngọc xá lợi chỉ phát sinh từ công phu tu hành nghiêm mật.

Giáo pháp mật tông được chia thành bốn bộ. Trong bốn bộ mật tông, chỉ có Mật tông Tối thượng Du già là có thể giúp hành giả đạt quả vị Phật ngay trong kiếp hiện tiền, ngay trong thời mạt pháp, ngay với xác phàm này. Ba bộ còn lại không có khả năng ấy. Mật tông Tối thượng Du già bao gồm hai giai đoạn: giai đoạn phát khởi và giai đoạn viên thành. Giai đoạn phát khởi có hai phần, thô lậu và vi tế. Giai đoạn viên thành có năm lớp. Kinh Phật nói rằng người nào thành tựu “tâm biệt lập” (mind isolation) (thuộc giai đoạn viên thành) thì có khả năng lưu ngọc xá lợi. Đã thành tựu được “tâm biệt lập” thì chắc chắn có khả năng thành Phật ngay trong kiếp hiện tiền.

 Tương tự như vậy, chúng ta có thể nhìn thấy ngọc xá lợi của chư Phật, ví dụ như ngọc xá lợi của đức Phật bổn sư Thích Ca Mâu Ni và của đức Phật Ca Diếp (phạn: Kasyapa, tạng: Osung), là hai đấng giác ngộ đã thành tựu cả hai đường tu không mê lầmPhương TiệnTrí Tuệ. Ngọc xá lợi có được là nhờ Phật Thích Ca và Phật Ca Diếp đã từng miên mật hành trì Sáu Hạnh Toàn Hảo, năm đạo, mười địa, v.v... trong suốt ba thời kỳ vô số, tích tụ hai bồ tư lương Phước Tuệ, viên thành sắc thânpháp thân. Ngọc xá lợi có được là nhờ thành tựu này. 

 Nói chung, thân Phật không giống như xác thân thô lậu kết từ máu thịt của người thường. Dù vậy, đức Phật từ bichúng sinhthị hiện nhiều loại xá lợi khác nhau, giúp chúng sinh nuôi dưỡng tín tâm, nhờ đó có thể tiếp nhận lực gia trì, thanh tịnh nghiệp chướng, tích tụ công đức.

 Trong quá khứ, khi Phật còn ở Ấn Độ, nhiều người có thể trực tiếp thấy được thân Phật. Ngày nay, vì nghiệp chướng che khuất nên chúng ta không thể trực tiếp thấy thân Phật, cũng không thể trực tiếp nghe lời Phật dạy. Chúng ta chỉ có thể thấy được xá lợi Phật. Đức Phật từ bi thị hiện hàng ngàn ngọc xá lợi cho chúng sinh chiêm bái. Kinh Phật có nói – ví dụ kinh Dode Kalsang - rằng Quốc Vương Ashoka xem xá lợi Phậtbảo vật linh thiêng nhất, đã vì chúng sinh mà xây nhiều bảo tháp để cất giữ ngọc xá lợi. Có rất nhiều ngọc xá lợi còn lưu lại ở Sri Lanka. Xá lợi Phật hiện vẫn còn rãi rác nhiều nơi trên thế giới, gieo nguồn cảm hứng cho vô lượng chúng sinh, đưa chúng sinh đến bờ giải thoátgiác ngộ. Đó là lý do duy nhất vì sao Phật lưu ngọc xá lợi.

 Với hàng bồ tát thánh giả, Phật thị hiện báo thân. Với hàng bồ tát mới phát tâm, Phật thị hiện báo thân. Còn với chúng sinh nặng nghiệp, Phật thị hiện xác phàm máu thịt. Cũng như đức Đạt-lai Lạt-ma hiện nay chúng ta có thể gặp được, ngài chính là đức Quan Thế Âm (Chenrezig), nhưng kẻ phàm phu như chúng ta chỉ có thể thấy được sắc tướng của một tỷ kheo xác phàm chịu cảnh bịnh tật già nua v.v... Tương tự như vậy, các đấng hành giả tu mật pháp đạt đạo quả cao – ví dụ như đức Geshe Lama Konchog – sau khi nhập tịch các ngài lưu xá lợi lại cho chúng sinh. Tâm thức các thầy một khi đã vì lòng đại bi mà đạt đạo quả cao thì các thầy đủ khả năng lưu ngọc Xá lợi. Geshe Lama Konchog đã tạo cảm hứng cho biết bao nhiêu người, đưa vào chánh pháp, cấy trồng thiện duyên. Khi thấy ngọc xá lợi của một vị thánh giả, chúng ta nên suy nghĩ như sau: ngay bây giờ, chư thánh đang mang lợi lạc về cho chúng ta bằng cách thị hiện xá lợi để chúng ta tích tụ công đức, thanh tịnh nghiệp chướng, nhờ đó dẫn dắt chúng ta đến bờ giải thoát, giác ngộ. Vì vậy chúng ta phải hết lòng tùy hỉ công đức của các ngài, như là công đức của Geshe Lama Konchog hay của các vị khác.

Chúng ta phải phát tâm như sau: “Nguyện chúng con cũng đạt chánh giác như các đấng giác ngộ đã đạt. Nguyện chúng con cũng có khả năng mang lợi ích rộng lớn về cho chúng sinh như các đấng giác ngộ vẫn hằng làm”. Chúng ta đối trước biển công đức của chư Phật và bồ tát, phải khởi tâm hoan hỉ; đối trước mọi tánh đức siêu việt của thân ngữ ý của các đấng giác ngộ, phải khởi tâm hoan hỉ; đối trước tất cả các thiện phương tiện mà các đấng giác ngộ đã vận dụng để lợi ích chánh pháp, lợi ích chúng sinh, phải khởi tâm hoan hỉ. Nếu chúng ta có thể khởi tâm tùy hỉ mạnh mẽ như vậy, phát nguyện mạnh mẽ như vậy, chắc chắn sẽ có thể mang lợi lạc rộng lớn về cho chánh pháp và cho chúng sinh. Khế kinh có nói, “Tất cả các pháp đều là duyên, trụ ngay trên đầu nguyện ước. Bất cứ lời phát nguyện nào cũng sẽ đưa đến kết quả đúng y như vậy”. Nói như vậy, thiện hay bất thiện đều tùy ở ý niệm, vì vậy chúng ta cần cố gắng hết sức để giữ tâm nguyện của mình sao cho thật tốt lành.

 Lama Tông Khách Ba có nói, “ngoại trừ một vài trường hợp ngoại lệ hiếm hoi, nói chung nếu tu hành mà không thuận theo ba điểm tinh yếu của Phật đạo [là tâm buông xả, tâm bồ đềtrí tuệ tánh Không] thì dù có làm gì cũng chỉ là tạo nhân duyên trầm luân cõi ta bà.” Thường nói thánh vật có chức năng đặc biệt, cho dù cúng dường, lễ lạy hay đi nhiễu bằng tâm nguyện không tốt, ví dụ bằng lòng sân hận, thì tác dụng cũng vẫn tốt lành, vẫn có thể tạo đủ nhân tố để đạt trí toàn giác.

 Để có thể đạt đạo quả cao như đạt “tâm biệt lập” trong giai đoạn thành tựu của Mật tông Tối thượng Du giàtrước tiên phải chứng được tánh Không của Trung Quán Cụ Duyên (Madhyamaka Prasangika), khác với tánh Không của các tông phái khác. Rồi lại phải hành trì tất cả mọi giai đoạn tu hiển như là phát tâm bồ đề, từ bỏ tâm lý vị kỷ, nuôi dưỡng lòng vị tha. Muốn được như vậy, trước đó phải khởi tâm buông xả: chán khổ sinh tử cầu vui niết bàn. Cội rễ của tất cả những điều nói trên đều nằm ở tâm tôn kính đạo sư, thấy đạo sư chính là đức Phật hiện tiền. Để thấy đạo sư chính là đức Phật hiện tiền, chúng ta cần biết cách nương dựa đúng cách nơi đấng đạo sư, trong từng ý tưởng, trong từng hành động. Nhờ vào quá trình tu tập luyện tâm như vậy mà ngọc xá lợi mới có thể xuất hiện.

 Đó là lý do vì sao ngọc xá lợi được xem là thánh vật trân quí. Ngọc xá lợi xuất hiện và lưu lại trong cõi thế đều là nhờ lòng từ bi của các đấng giác ngộ, giúp chúng ta tích tụ công đức, giúp chúng ta thanh tịnh chướng nghiệp.

Lời ghi xuất xứ

 Bài pháp này được viết tại vùng đất thánh Bồ Đề Đạo Tràng vào ngày 29 tháng 01 năm 2002 trong kỳ Đại lễ Quán Đảnh Kalachakra do đức Quan Thế Âm, bậc toàn giác, đức Đạt-lai Lạt-ma truyền thọ. Ven. Pemba Sherpa chuyển Anh ngữ, Ven. Sarah Thresher hiệu đính. Lama Zopa Rinpoche soát bản dịch và hiệu đính. Ven. Constance Miller tại Ban Giáo Dục FPMT soát lại câu văn, tháng 5/2002.

 
Hồng Như chuyển Việt ngữ từ bản dịch Anh ngữ, 06/2006. 

Hạ tải bài tiếng Anh:

www.fpmt.org/teachers/zopa/advice/relicsKZR.pdf
(Mọi sai sót là của người dịch. Mọi công đức xin hồi hướng pháp giới chúng sinh.)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7724)
Tỳ-bà-thi Phật là danh hiệu phiên âm từ Pāli ngữ Vipassī, Sanskrit: Vipaśyin; có nghĩa là cái nhìn đặc biệt, cái nhìn sâu sắc và thanh tịnh; cách nhìn này xuyên suốt thấu đáo mọi vấn đề.
(Xem: 22524)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 8927)
Trong lịch sử tôn giáo của nhân loại rất hiếm có bậc lãnh đạo tinh thần - qua lời nói, hành động và khả năng thiện xảo - làm tăng động lực và tạo một chuyển hướng mới cho tôn giáo, Đức Phật là một khuôn mặt hiếm hoi trong các bậc này.
(Xem: 10158)
Cho đến nay, người ta vẫn chưa biết chính xác bản kinh Pháp Hoa này được thiết lập khi nào, ở đâu và được ghi lại bằng ngôn ngữ nào trước hết.
(Xem: 16862)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 8295)
Việc nghiên cứu Kinh Lăng-già, đã được ngài D.T.Suzuki thực hiện, qua tác phẩm “rất thẩm quyền”: Studies in the Lankavatara Sutra – nghiên cứu về kinh Lăng-già.
(Xem: 19115)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 8019)
Chính pháp trụ một nghìn năm, tượng pháp trụ một nghìn năm, mạt pháp trụ một vạn năm. Thuyết này trích trong Kì-hoàn tinh xá bi.
(Xem: 6971)
Nhị đếtục đếchân đế, còn gọi là chân lý tương đốichân lý tuyệt đối hay chân lý thế gianchân lý xuất thế gian.
(Xem: 8240)
Phật giáocách sống dựa trên việc rèn luyện tâm. Mục đích cao nhất là để đi trên con đường giải thoát khỏi đau khổ, và đạt đến Niết Bàn,
(Xem: 8580)
Trong 2 giai tầng của việc phát triển tâm giác ngộ nguyện vọng và dấn thân, chỉ với việc dấn thân chúng ta mới thọ giới Bồ tát.
(Xem: 9684)
Trích từ quyển How to See Yourself as You Really Are của Đức Đạt Lai Lạt Ma - Tuệ Uyển chuyển ngữ
(Xem: 9549)
Thực chứng giáo lý duyên khởi, người thông tuệ hoàn toàn không vướng vào những quan điểm cực đoan...
(Xem: 7737)
Công cuộc hiện đại hóa giáo dục đại họcTrung Quốc bắt đầu từ việc chính phủ Mãn Thanh xây dựng “Kinh Sư Đại Học Đường” năm 1910 chiêu sinh sinh viên chính quy đầu tiên.
(Xem: 8306)
Đức Phật nói, nếu giữ tâm vững như hòn đảo trước phong ba bão táp của cuộc đời thì chúng ta sẽ có được chất liệu an vui, an vui về thái độ, tinh thần...
(Xem: 8310)
Phật dạy thân người do tứ đại gồm bốn chất đất-nước-gió-lửa hòa hợp lại hình thành; đất với gió lại không thuận với nhau, gió thổi mạnh thì đất rung rinh..
(Xem: 7951)
Phật dạy trong mỗi người chúng ta đều có phần tâm linh sáng suốt, nương nơi mắt thì thấy biết không lầm lẫn, sự vật như thế nào thì biết rõ như thế đó;
(Xem: 8456)
Thực tại nền tảng của thế giới Hoa Nghiêm là Phật Tỳ-lô-giá-na (Vairocana). Đây là Pháp thân của Đức Phật Thích-ca và cũng là Pháp thân của tất cả chư Phật.
(Xem: 9988)
Dựa trên giả định các hoạt động của Tâm tạo ra những cấu trúc não bộ mới (Hebb 1949) cho biết ý tưởng, tình cảm có thể để lại dấu ấn
(Xem: 9011)
Là giai đoạn duy nhất trong kinh nghiệm cận tử liên quan đến việc nhận thức thế giới mang tính vật lý hơn là tính tâm linh...GIDEON LITCHFIELD
(Xem: 8804)
Khi Mâu Tử, một tri thức Tàu, tị nạn tại Giao Châu và viết trong Lý Hoặc Luận vào cuối thế kỷ thứ 2 sau tây lịch rằng, “Đất Hán chưa chắc là trung tâm của trời đất,”
(Xem: 8049)
Nếu quý vị không có tuệ giác trong cung cách chính mình và mọi thứ thật sự là, quý vị không thể nhận ra và xa lánh những chướng ngại...
(Xem: 9967)
Tâm ta là vật quan trọng nhất. Mọi sự đến từ tâm, vì thế tất cả những gì không ai ưa thích mà giờ đây ta đối mặt cũng đến từ tâm.
(Xem: 9875)
Những giác quan của chúng ta góp phần cho sự si mê của chúng ta. Đối với những tính năng của chúng ta về thấy, nghe, ngửi, nếm, và cảm giác, những đối tượng dường như tồn tại trong tự bản chất của nó.
(Xem: 9374)
Chết là một bộ phận trong sự sống của chúng ta. Dĩ nhiên, theo quan điểm của Phật Giáo, thân thể này trong một ý nghĩa nào đó là một kẻ thù.
(Xem: 10264)
Bất cứ ai quan tâm đến lịch sử Đức Phật đều muốn biết về bữa ăn cuối cùng của Ngài do ông Thuần Đà (Cunda) cúng dường,
(Xem: 14589)
Là vị Bồ Tát tiêu biểu cho Trí Tuệ, Bồ Tát Văn Thù thường được miêu tả với dáng dấp trẻ trung ngồi kiết già trên một chiếc bồ đoàn bằng hoa sen.
(Xem: 9137)
Đức Phật là một bậc đạo sư thực tiễn. Mục tiêu duy nhất của Ngài là giải thích tất cả chi tiết trong vấn đề của khổ là thực tế phổ biến của cuộc đời.
(Xem: 8628)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 9779)
Khi mới thành đạo, đức Phật đã nói: “Lạ thay tất cả chúng sanh đều có đức tính trí huệ của Như Lai mà bị vô minh che lấp nên không phát hiện ra được”.
(Xem: 15797)
Ở đời tuổi tác là một nhân tố quan trọng tác thành nên vị trí của cá nhân trong cộng đồng. Trong đạo cũng vậy, những bậc truởng lão, thâm niên lại càng được kính nể và tôn trọng hơn.
(Xem: 8205)
Bảy yếu tố khiến Tăng đoàn hưng thịnh hay còn gọi là bảy pháp bất thối được đề cập trong bài kinh Đại bát Niết bàn, gồm: Có Tín tâm, có Tàm, có Quý, Đa văn, Tinh tấn, Chánh niệmTrí tuệ.
(Xem: 11136)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh.
(Xem: 11796)
Đạo đức học là một bộ phận của triết học nhằm dựa vào lý tríthiết lập một sự phân biệt giữa thiện và ác, giữa điều được làm và điều bị cấm làm.
(Xem: 8883)
Trong đời tu hành của con có một chướng ngại mà con không vượt qua được, đó là những niệm tưởng lăng xăng. Nó quấy rầy luôn, cả những lúc nghỉ ngơi cũng không yên.
(Xem: 9115)
Điều cần bảo vệ chính là cái tâm của người con Phật, biết kiên trì thực hành những lời Phật dạy để đem lại an lạc cho chính mình và những người chung quanh
(Xem: 12039)
Chữ “giác ngộ” trong Đạo Phật, tiếng Pali và Sanskrit đều là “Bodhi”. Tiếng Anh là “enlightenment” hay “awakening”
(Xem: 9447)
Chúng tôi đã thuyết giảng về những cảm xúc đau khổ và các tai hại mà chúng sẽ gây ra cho việc hành trì tu tập của chúng ta.
(Xem: 21758)
Chúng ta đã biết đời là vô thường đau khổ, nhưng chúng ta còn cố chấp cái ngã, cái ta, cố bám víu vào cái của ta, thì chúng ta không thể trừ bỏ được kiêu mạn,
(Xem: 15305)
Người Phật tử có trí và hiểu đạo chỉ quan tâm khiến cho mỗi đời sống là một bước tiến trên con đường tiến bộ tâm linh không ngừng, dẫn tới sự giải thoátgiác ngộ tối hậu...
(Xem: 8681)
Điểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc như một kết quả cho việc hành trì. Vậy, Chứng ngộVãng sanh khác nhau thế nào?
(Xem: 9384)
Khi đã biết nghiệp báo nhân quả không thể tránh, khủng khiếp như thế, chúng ta phải cố gắng tránh làm ác từ ý nghĩ, lời nói đến việc làm
(Xem: 7828)
Khảo sát hiện tượng "hội nhập văn hóa" tại một trung tâm Phật giáovị trí quan trọng vào hàng nhất nhì ở thời Lý-Trần như chùa Quỳnh Lâm...
(Xem: 9418)
Ta-bà là chu kỳ của sự hiện hữu (sự sinh, sự sống và cái chết) chi phối bởi nghiệp (karma). Đấy là chiếc bánh xe của khổ đau hình thành từ các hiện tượng của sự hiện hữu
(Xem: 9463)
Chúng ta sợ đủ thứ: sợ chết, sợ khốn khổ, sợ bị chê bai chỉ trích, và trên tất cả, hình như chúng ta rất sợ sự thật.
(Xem: 10445)
Con người sanh ra trên cõi đời này đã mang theo nghiệp nhân của đời trước, lúc lớn lên lại gây tạo thêm nghiệp mới.
(Xem: 8881)
Tất cả việc làm của Phật giáo đều tập chú vào lợi ích cho chúng sanh. Chúng sanh là đối tượng duy nhất của Phật giáo.
(Xem: 14923)
Mặc dù các tôn giáo nhất là Phật giáo đều nhấn mạnh đến vấn đề Nhân Quả - Nghiệp báo, song Luật Nhân quả không phải là của riêng một tôn giáo nào, nó là một luật của tự nhiên
(Xem: 8043)
“Sống Tỉnh Giác” là sống tỉnh chứ không còn ngủ mê nữa. Đây là đi vào thực hành chứ không phải là học, hiểu hay lý luận suông.
(Xem: 8378)
Sau khi trở thành phật tử, có tam qui, ngũ giới rồi, người phật tử phải sống ra sao để an lạc hạnh phúc?
(Xem: 8443)
Tất cả chúng ta đều có duyên lớn được gặp Phật pháp, được học Phật, được có người chỉ đường, có bản đồ sẵn hết rồi, chỉ còn một việc là bước đi để trở về.
(Xem: 8862)
‘Tâm’ là chữ thường xuyên xuất hiện với người Phật tử mỗi khi nói đến tu tập . Thật vậy, nào là ‘Tu tâm’ , ‘một niệm ở tâm ta’ , nào là ‘giữ tâm ý trong sạch ’ , ‘
(Xem: 9158)
Chánh Giáo (Tam Bồ Đề_ Sambhodhi) cùng Giải Thoátmục đích chung của Phật và các đệ tử Thanh Văn...
(Xem: 8659)
Cầu xin mà có hiệu qủa, chẳng có ai không cầu, cứ ngồi đó mà cầu nguyện là tự có tất cả, chẳng phải làm việc vất vả, cần gì phải học hành cực nhọc....
(Xem: 8228)
Phật Giáo Ấn ĐộTây Tạng phân loại và hệ thống hóa toàn bộ giáo huấn của Đức Phật thành ba chu kỳ khác nhau gọi là "ba vòng quay của bánh xe Đạo Pháp"
(Xem: 7770)
Con Đường Của Bụt là chủ đề của khoá tu An Cư Kiết Đông năm 2008 - 2009. Đây là con đường Bụt đã đi, và chúng ta đang đi theo sự hướng dẫn của Ngài.
(Xem: 9942)
con người, chúng ta có khuynh hướng bám víu vào đời sống của chính mình. Nhà Phật gọi đó là chấp thủ.
(Xem: 7956)
Con người luôn sống trong sợ hãi từ hiện tại cho đến vị lai, là do chính mình gây tạo nên bằng những hành động, lời nóiý nghĩ bất thiện
(Xem: 7896)
Kinh điển thường ví giận dữ như một cơn điên. Người điên cuồng không kiềm chế được ý thức nên hành vi, cử chỉ, việc làm gây thương tổn bản thân và người khác.
(Xem: 6998)
Trồng nhân thiện nhất định được quả thiện, tạo ác nghiệp nhất định chiêu quả khổ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant