Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bốn Sự Thật Cao Quý

03 Tháng Mười Một 201511:05(Xem: 9024)
Bốn Sự Thật Cao Quý

Bốn Sự Thật Cao Quý 
(The Four Noble Truths - Barbara O'Brien)

Barbara O'Brien
Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến


Bốn Sự Thật Cao Quý

Sau khi Đức Phật giác ngộ, bài giảng đầu tiên của ngài tập trung vào Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế), đó chính là nền tảng của Đạo Phật. Bốn sự thật cao quý là:

1. SỰ THẬT VỀ SỰ ĐAU KHỔ (DUKKHA)

2. SỰ THẬT VỀ NGUYÊN NHÂN CỦA SỰ ĐAU KHỔ (SAMUDAYA)

3. SỰ THẬT VỀ CÁCH CHẤM DỨT SỰ ĐAU KHỔ (NIRHODHA)

4. SỰ THẬT VỀ CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT CHÚNG TA KHỎI SỰ ĐAU KHỔ (MAGGA)

Chúng ta hãy xem xét từng sự thật cao quý, dưới đây.

1) SỰ THẬT VỀ SỰ ĐAU KHỔ (DUKKHA):

Sự Thật Cao Quý Thứ Nhất thường được dịch là "Cuộc đời là đau khổ." Nhiều người khi mới bước chân vào đạo Phật, và ngay khi họ nghe câu nói trên, họ đã chẳng còn muốn lắng nghe Phật Pháp nữa, họ đã chẳng còn muốn học hỏi nữa. 

Tuy nhiên, từ ngữ Pali dukkha cũng ám chỉ, bất cứ điều-gì tạm-thời, điều-gì có điều-kiện, hoặc là một sự tổng-hợp của nhiều thứ khác nhau. Thậm chí những gì quý giá, và thú vị cũng chỉ là tạm-thời, bởi vì những điều nầy sẽ chấm dứt.

Liên quan đến bản chất của cuộc đời, là bản chất của cái-tôi. Có phải con người chúng ta cũng chỉ là tạm-thời, cũng là có điều-kiện, và cũng là tổng-hợp của nhiều thứ khác nhau không? Chúng ta đã hiểu rằng cuộc đờivô thường, tuy nhiên, chúng ta có hiểu chúng ta cũng là vô thường không? Đức Phật dạy rằng trước khi chúng ta hiểu biết về cuộc sống, và về cái chết, chúng ta phải cần phải hiểu biết về bản thân của chúng ta.

2) SỰ THẬT VỀ NGUYÊN NHÂN CỦA SỰ ĐAU KHỔ (SAMUDAYA):

Sự Thật Cao Quý Thứ Nhì dạy rằng nguyên nhân của sự đau khổ là sự ham muốn, hoặc là sự thèm khát (tanha).

Chúng ta tiếp tục đi tìm kiếm một cái gì đó, bên ngoài chúng ta để giúp cho chúng ta hạnh phúc. Tuy nhiên, dù cho chúng tathành công biết bao nhiêu chăng nữa, chúng ta cũng chẳng bao giờ hài lòng.

Đức Phật dạy rằng sự thèm khát nầy, phát sinh từ sự thiếu hiểu biết của chúng ta. Chúng ta đi qua cuộc đời nầy, bằng cách chụp-giữ-lấy hết vật-nầy sang vật-khác, để chúng ta có được cảm giác an toàn. Chúng ta dính mắc không chỉ những thứ về vật chất, mà chúng ta còn dính mắc với những ý-nghĩ, với những ý-kiến về bản thân, và với thế giới chung quanh chúng ta.

Sau đó, chúng ta cảm thấy thất vọng, vì mọi người không cư xử theo đường lối của chúng ta, vì thế, sự thất vọng của chúng ta ngày càng tăng lên, bởi vì cuộc sống chúng ta đã diễn ra, không giống như sự mong đợi của chúng ta.

Lời Phật Dạy về nghiệp, và về sự tái sinh, liên quan chặt chẽ đến Sự Thật Cao Quý Thứ Nhì nầy.

3) SỰ THẬT VỀ CÁCH CHẤM DỨT SỰ ĐAU KHỔ (NIRHODHA):

Lời Phật Dạy về Bốn Sự Thật Cao Quý đôi khi được so sánh với một vị bác sĩ khi ông chẩn đoán bệnh tật, và khi ông cho toa thuốc điều trị. Sự Thật Cao Quý Thứ Nhất cho chúng ta biết chúng ta bệnh gì, và Sự Thật Cao Quý Thứ Nhì cho chúng ta biết nguyên nhân gây ra căn bệnh nầy. Sự Thật Cao Quý Thứ Ba mang đến cho chúng ta niềm hy vọng chữa dứt căn bệnh nầy.  

Đức Phật dạy rằng nếu chúng ta thực tập siêng năng, chúng ta có thể chấm dứt được sự ham muốn.

Trước kia, chúng ta giống như con chuột bạch chạy vòng quanh bánh xe không ngừng nghỉ, tuy nhiên, nay chúng ta đã chấm dứt được sự rượt đuổi vui thích nầy, và nay chúng ta đạt tới sự giác ngộ (hoặc là sự tỉnh thức). Các bậc giác ngộ sống trong trạng thái gọi là Niết Bàn.

4) SỰ THẬT VỀ CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT CHÚNG TA KHỎI SỰ ĐAU KHỔ (MAGGA):

Trong Sự Thật Cao Quý Thứ Tư, Đức Phật như một vị bác sĩ, ngài viết toa thuốc cho căn bệnh của chúng ta: đó là Con Đường Cao Quý Có Tám Phần (Bát Chánh Đạo). Không giống như nhiều tôn giáo khác, chúng ta sẽ không có ích-lợi đặc biệt nào khi chúng ta chỉ tin tưởng vào giáo lý của Đức Phật. Thay vào đó, trọng tâm của Đạo Phậtchúng ta phải thực hành giáo lý, phải hằng sống với giáo lý, rồi chúng ta phải tự bước chân đi trên Con Đường Cao Quý Có Tám Phần nầy.

The Four Noble Truths

 

The Buddha's first sermon after his Enlightenment centered on the Four Noble Truths, which are the foundation of Buddhism. The truths are:

1. THE TRUTH OF SUFFERING (DUKKHA)

2. THE TRUTH OF THE CAUSE OF SUFFERING (SAMUDAYA)

3. THE TRUTH OF THE END OF SUFFERING (NIRHODHA)

4. THE TRUTH OF THE PATH THAT FREES US FROM SUFFERING (MAGGA)

Let's look at one truth at a time.

1. THE TRUTH OF SUFFERING

The First Noble Truth often is translated as "Life is suffering." Many people new to Buddhism tune out as soon as they hear this.

But the Pali word dukkha also refers to anything that is temporary, conditional, or compounded of other things. Even something precious and enjoyable is dukkha, because it will end.

Related to the nature of life is the nature of self. Are we not also temporary, conditional and compounded of many parts? We can understand that life is impermanent but are we, also, impermanent? The Buddha taught that before we can understand life and death we must understand the self.

2. THE TRUTH OF THE CAUSE OF SUFFERING

The Second Noble Truth teaches that the cause of suffering is craving or thirst (tanha).

We continually search for something outside ourselves to make us happy. But no matter how successful we are, we never remain satisfied.

The Buddha taught that this thirst grows from ignorance of the self. We go through life grabbing one thing after another to get a sense of security about ourselves. We attach not only to physical things, but also to ideas and opinions about ourselves and the world around us.

Then we grow frustrated when the world doesn't behave the way we think it should and our lives don't conform to our expectations.

The Buddha's teachings on karma and rebirth are closely related to the Second Noble Truth.

3. THE TRUTH OF THE END OF SUFFERING

The Buddha's teachings on the Four Noble Truths are sometimes compared to a physician diagnosing an illness and prescribing a treatment. The first truth tells us what the illness is, and the second truth tells us what causes the illness. The Third Noble Truth holds out hope for a cure.

The Buddha taught that through diligent practice, we can put an end to craving.

Ending the hamster-wheel chase after satisfaction is enlightenment (bodhi, "awakened"). The enlightened being exists in a state called Nirvana.

4. THE TRUTH OF THE PATH THAT FREES US FROM SUFFERING

In the Fourth Noble Truth, the Buddha as physician prescribes the treatment for our illness: The Eightfold Path. Unlike in many other religions, in Buddhism there is no particular benefit to merely believing in a doctrine. Instead, the emphasis is on living the doctrine and walking the path.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7723)
Tỳ-bà-thi Phật là danh hiệu phiên âm từ Pāli ngữ Vipassī, Sanskrit: Vipaśyin; có nghĩa là cái nhìn đặc biệt, cái nhìn sâu sắc và thanh tịnh; cách nhìn này xuyên suốt thấu đáo mọi vấn đề.
(Xem: 22518)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 8923)
Trong lịch sử tôn giáo của nhân loại rất hiếm có bậc lãnh đạo tinh thần - qua lời nói, hành động và khả năng thiện xảo - làm tăng động lực và tạo một chuyển hướng mới cho tôn giáo, Đức Phật là một khuôn mặt hiếm hoi trong các bậc này.
(Xem: 10158)
Cho đến nay, người ta vẫn chưa biết chính xác bản kinh Pháp Hoa này được thiết lập khi nào, ở đâu và được ghi lại bằng ngôn ngữ nào trước hết.
(Xem: 16859)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 8294)
Việc nghiên cứu Kinh Lăng-già, đã được ngài D.T.Suzuki thực hiện, qua tác phẩm “rất thẩm quyền”: Studies in the Lankavatara Sutra – nghiên cứu về kinh Lăng-già.
(Xem: 19113)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 8016)
Chính pháp trụ một nghìn năm, tượng pháp trụ một nghìn năm, mạt pháp trụ một vạn năm. Thuyết này trích trong Kì-hoàn tinh xá bi.
(Xem: 6971)
Nhị đếtục đếchân đế, còn gọi là chân lý tương đốichân lý tuyệt đối hay chân lý thế gianchân lý xuất thế gian.
(Xem: 8240)
Phật giáocách sống dựa trên việc rèn luyện tâm. Mục đích cao nhất là để đi trên con đường giải thoát khỏi đau khổ, và đạt đến Niết Bàn,
(Xem: 8579)
Trong 2 giai tầng của việc phát triển tâm giác ngộ nguyện vọng và dấn thân, chỉ với việc dấn thân chúng ta mới thọ giới Bồ tát.
(Xem: 9683)
Trích từ quyển How to See Yourself as You Really Are của Đức Đạt Lai Lạt Ma - Tuệ Uyển chuyển ngữ
(Xem: 9548)
Thực chứng giáo lý duyên khởi, người thông tuệ hoàn toàn không vướng vào những quan điểm cực đoan...
(Xem: 7737)
Công cuộc hiện đại hóa giáo dục đại họcTrung Quốc bắt đầu từ việc chính phủ Mãn Thanh xây dựng “Kinh Sư Đại Học Đường” năm 1910 chiêu sinh sinh viên chính quy đầu tiên.
(Xem: 8306)
Đức Phật nói, nếu giữ tâm vững như hòn đảo trước phong ba bão táp của cuộc đời thì chúng ta sẽ có được chất liệu an vui, an vui về thái độ, tinh thần...
(Xem: 8308)
Phật dạy thân người do tứ đại gồm bốn chất đất-nước-gió-lửa hòa hợp lại hình thành; đất với gió lại không thuận với nhau, gió thổi mạnh thì đất rung rinh..
(Xem: 7951)
Phật dạy trong mỗi người chúng ta đều có phần tâm linh sáng suốt, nương nơi mắt thì thấy biết không lầm lẫn, sự vật như thế nào thì biết rõ như thế đó;
(Xem: 8453)
Thực tại nền tảng của thế giới Hoa Nghiêm là Phật Tỳ-lô-giá-na (Vairocana). Đây là Pháp thân của Đức Phật Thích-ca và cũng là Pháp thân của tất cả chư Phật.
(Xem: 9987)
Dựa trên giả định các hoạt động của Tâm tạo ra những cấu trúc não bộ mới (Hebb 1949) cho biết ý tưởng, tình cảm có thể để lại dấu ấn
(Xem: 9010)
Là giai đoạn duy nhất trong kinh nghiệm cận tử liên quan đến việc nhận thức thế giới mang tính vật lý hơn là tính tâm linh...GIDEON LITCHFIELD
(Xem: 8803)
Khi Mâu Tử, một tri thức Tàu, tị nạn tại Giao Châu và viết trong Lý Hoặc Luận vào cuối thế kỷ thứ 2 sau tây lịch rằng, “Đất Hán chưa chắc là trung tâm của trời đất,”
(Xem: 8049)
Nếu quý vị không có tuệ giác trong cung cách chính mình và mọi thứ thật sự là, quý vị không thể nhận ra và xa lánh những chướng ngại...
(Xem: 9962)
Tâm ta là vật quan trọng nhất. Mọi sự đến từ tâm, vì thế tất cả những gì không ai ưa thích mà giờ đây ta đối mặt cũng đến từ tâm.
(Xem: 9873)
Những giác quan của chúng ta góp phần cho sự si mê của chúng ta. Đối với những tính năng của chúng ta về thấy, nghe, ngửi, nếm, và cảm giác, những đối tượng dường như tồn tại trong tự bản chất của nó.
(Xem: 9370)
Chết là một bộ phận trong sự sống của chúng ta. Dĩ nhiên, theo quan điểm của Phật Giáo, thân thể này trong một ý nghĩa nào đó là một kẻ thù.
(Xem: 10258)
Bất cứ ai quan tâm đến lịch sử Đức Phật đều muốn biết về bữa ăn cuối cùng của Ngài do ông Thuần Đà (Cunda) cúng dường,
(Xem: 14583)
Là vị Bồ Tát tiêu biểu cho Trí Tuệ, Bồ Tát Văn Thù thường được miêu tả với dáng dấp trẻ trung ngồi kiết già trên một chiếc bồ đoàn bằng hoa sen.
(Xem: 9134)
Đức Phật là một bậc đạo sư thực tiễn. Mục tiêu duy nhất của Ngài là giải thích tất cả chi tiết trong vấn đề của khổ là thực tế phổ biến của cuộc đời.
(Xem: 8625)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 9774)
Khi mới thành đạo, đức Phật đã nói: “Lạ thay tất cả chúng sanh đều có đức tính trí huệ của Như Lai mà bị vô minh che lấp nên không phát hiện ra được”.
(Xem: 15791)
Ở đời tuổi tác là một nhân tố quan trọng tác thành nên vị trí của cá nhân trong cộng đồng. Trong đạo cũng vậy, những bậc truởng lão, thâm niên lại càng được kính nể và tôn trọng hơn.
(Xem: 8205)
Bảy yếu tố khiến Tăng đoàn hưng thịnh hay còn gọi là bảy pháp bất thối được đề cập trong bài kinh Đại bát Niết bàn, gồm: Có Tín tâm, có Tàm, có Quý, Đa văn, Tinh tấn, Chánh niệmTrí tuệ.
(Xem: 11132)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh.
(Xem: 11793)
Đạo đức học là một bộ phận của triết học nhằm dựa vào lý tríthiết lập một sự phân biệt giữa thiện và ác, giữa điều được làm và điều bị cấm làm.
(Xem: 8882)
Trong đời tu hành của con có một chướng ngại mà con không vượt qua được, đó là những niệm tưởng lăng xăng. Nó quấy rầy luôn, cả những lúc nghỉ ngơi cũng không yên.
(Xem: 9112)
Điều cần bảo vệ chính là cái tâm của người con Phật, biết kiên trì thực hành những lời Phật dạy để đem lại an lạc cho chính mình và những người chung quanh
(Xem: 12033)
Chữ “giác ngộ” trong Đạo Phật, tiếng Pali và Sanskrit đều là “Bodhi”. Tiếng Anh là “enlightenment” hay “awakening”
(Xem: 9439)
Chúng tôi đã thuyết giảng về những cảm xúc đau khổ và các tai hại mà chúng sẽ gây ra cho việc hành trì tu tập của chúng ta.
(Xem: 21756)
Chúng ta đã biết đời là vô thường đau khổ, nhưng chúng ta còn cố chấp cái ngã, cái ta, cố bám víu vào cái của ta, thì chúng ta không thể trừ bỏ được kiêu mạn,
(Xem: 15301)
Người Phật tử có trí và hiểu đạo chỉ quan tâm khiến cho mỗi đời sống là một bước tiến trên con đường tiến bộ tâm linh không ngừng, dẫn tới sự giải thoátgiác ngộ tối hậu...
(Xem: 8680)
Điểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc như một kết quả cho việc hành trì. Vậy, Chứng ngộVãng sanh khác nhau thế nào?
(Xem: 9382)
Khi đã biết nghiệp báo nhân quả không thể tránh, khủng khiếp như thế, chúng ta phải cố gắng tránh làm ác từ ý nghĩ, lời nói đến việc làm
(Xem: 7826)
Khảo sát hiện tượng "hội nhập văn hóa" tại một trung tâm Phật giáovị trí quan trọng vào hàng nhất nhì ở thời Lý-Trần như chùa Quỳnh Lâm...
(Xem: 9416)
Ta-bà là chu kỳ của sự hiện hữu (sự sinh, sự sống và cái chết) chi phối bởi nghiệp (karma). Đấy là chiếc bánh xe của khổ đau hình thành từ các hiện tượng của sự hiện hữu
(Xem: 9461)
Chúng ta sợ đủ thứ: sợ chết, sợ khốn khổ, sợ bị chê bai chỉ trích, và trên tất cả, hình như chúng ta rất sợ sự thật.
(Xem: 10442)
Con người sanh ra trên cõi đời này đã mang theo nghiệp nhân của đời trước, lúc lớn lên lại gây tạo thêm nghiệp mới.
(Xem: 8881)
Tất cả việc làm của Phật giáo đều tập chú vào lợi ích cho chúng sanh. Chúng sanh là đối tượng duy nhất của Phật giáo.
(Xem: 14896)
Mặc dù các tôn giáo nhất là Phật giáo đều nhấn mạnh đến vấn đề Nhân Quả - Nghiệp báo, song Luật Nhân quả không phải là của riêng một tôn giáo nào, nó là một luật của tự nhiên
(Xem: 8043)
“Sống Tỉnh Giác” là sống tỉnh chứ không còn ngủ mê nữa. Đây là đi vào thực hành chứ không phải là học, hiểu hay lý luận suông.
(Xem: 8360)
Sau khi trở thành phật tử, có tam qui, ngũ giới rồi, người phật tử phải sống ra sao để an lạc hạnh phúc?
(Xem: 8441)
Tất cả chúng ta đều có duyên lớn được gặp Phật pháp, được học Phật, được có người chỉ đường, có bản đồ sẵn hết rồi, chỉ còn một việc là bước đi để trở về.
(Xem: 8856)
‘Tâm’ là chữ thường xuyên xuất hiện với người Phật tử mỗi khi nói đến tu tập . Thật vậy, nào là ‘Tu tâm’ , ‘một niệm ở tâm ta’ , nào là ‘giữ tâm ý trong sạch ’ , ‘
(Xem: 9155)
Chánh Giáo (Tam Bồ Đề_ Sambhodhi) cùng Giải Thoátmục đích chung của Phật và các đệ tử Thanh Văn...
(Xem: 8657)
Cầu xin mà có hiệu qủa, chẳng có ai không cầu, cứ ngồi đó mà cầu nguyện là tự có tất cả, chẳng phải làm việc vất vả, cần gì phải học hành cực nhọc....
(Xem: 8224)
Phật Giáo Ấn ĐộTây Tạng phân loại và hệ thống hóa toàn bộ giáo huấn của Đức Phật thành ba chu kỳ khác nhau gọi là "ba vòng quay của bánh xe Đạo Pháp"
(Xem: 7770)
Con Đường Của Bụt là chủ đề của khoá tu An Cư Kiết Đông năm 2008 - 2009. Đây là con đường Bụt đã đi, và chúng ta đang đi theo sự hướng dẫn của Ngài.
(Xem: 9942)
con người, chúng ta có khuynh hướng bám víu vào đời sống của chính mình. Nhà Phật gọi đó là chấp thủ.
(Xem: 7954)
Con người luôn sống trong sợ hãi từ hiện tại cho đến vị lai, là do chính mình gây tạo nên bằng những hành động, lời nóiý nghĩ bất thiện
(Xem: 7894)
Kinh điển thường ví giận dữ như một cơn điên. Người điên cuồng không kiềm chế được ý thức nên hành vi, cử chỉ, việc làm gây thương tổn bản thân và người khác.
(Xem: 6993)
Trồng nhân thiện nhất định được quả thiện, tạo ác nghiệp nhất định chiêu quả khổ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant