Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhập Trung Đạo: Con Đường Bồ Tát Tích Hợp Đại BiTrí Tuệ (bài 7)

16 Tháng Năm 201604:36(Xem: 7561)
Nhập Trung Đạo: Con Đường Bồ Tát Tích Hợp Đại Bi Và Trí Tuệ (bài 7)
Nguyệt Xứng (c. 570 - 650) 
NHẬP TRUNG ĐẠO
CON ĐƯỜNG BỒ TÁT TÍCH HỢP ĐẠI BITRÍ TUỆ 
Diệm Huệ địa (Bài 7) 

Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc
Bản Anh: Introduction to the Middle Way. Chandrakirti’s Madhyamakavatara with  Commentary by Jamgon Mipham.
Translated by The Padmakara Translation Group (2002). Shambhala, 2004.

Nhập Trung Đạo

Nhập Trung Đạo. Các kệ tụng

IV. 1. Tất cả các tính đức là kết quả đến từ tinh tấn, nguyên nhân của hai tích tập phúc đứctrí tuệ. Trí địa thứ tư ngọn lửa trí huệ của tinh tấn phát ra ánh sáng huy hoàng rực rỡ nên được gọi là diệm huệ địa.

IV. 2.  Nơi trí địa này, các người con của các Như Lai có ánh sáng huy hoàng rực rỡ sinh từ thiền định về các phương diện của Phật quả. Các tri kiến về ngã đã hoàn toàn đoạn trừ, ánh sáng của các bồ tát huy hoàng rực rỡ hơn ánh sáng màu vàng đồng của bình minh.

___________________

Sơ đồ bản Giải thích Nhập Trung Đạo :

IV. Trí địa thứ tư: Diệm huệ

A. Sự tuyệt hảo của tinh tấn trên trí địa thứ tư (Tụng IV. 1)
B. Định nghĩa của trí địa này (Tụng IV. 2)
C. Các đặc điểm của sự đoạn trừ .

___________________________________

IV. Trí địa thứ tư: Diệm Huệ

Sự tuyệt hảo của tinh tấn trên trí địa thứ tư

Tụng IV. 1.

IV. 1. Tất cả các tính đức là kết quả đến từ tinh tấn, nguyên nhân của hai tích tập phúc đứctrí tuệ. Trí địa thứ tư ngọn lửa trí huệ của tinh tấn phát ra ánh sáng huy hoàng rực rỡ nên được gọi là diệm huệ địa.

Các tính đức do sinh vào ba cõi trên của sinh tử luân hồi và sự thành tựu sự toàn hảo tối hậu của trạng thái phật đều là kết quả trong sự tỉnh giác  của tinh tấn nhiệt thành. Hai tích tập phúc đứctrí tuệ được hình thành xuyên qua tinh tấn. Trên trí địa thứ tư, sự lười biếng hoàn toàn bị đoạn trừ và tinh tấn phát ra ánh sáng huy hoàng rực rỡ. Do thế trí địa thứ tư được gọi là Diệm Huệ.

B. Định nghĩa của trí địa thứ tư

Tụng IV.2

IV.2.  Nơi trí địa này, các người con của các Như Lai có ánh sáng huy hoàng rực rỡ sinh từ thiền định về các phương diện của Phật quả. Các tri kiến về ngã đã hoàn toàn đoạn trừ, ánh sáng của các bồ tát huy hoàng rực rỡ hơn ánh sáng màu vàng đồng của bình minh.

Trên trí địa này, các Bồ tát, các người con của tâm của đấng Thiện Thệ, an trú với 37 phẩm trợ đạo dẫn đến giác ngộ. Ánh sáng của trí tuệ  dẫn xuất từ trí địa này huy hoàng rực rỡ hơn ánh sáng màu vàng đồng được trải nghiệm trên trí địa thứ ba. Trí địa thứ tư phát sáng với ánh sáng này, và do thế có tên là diệm huệ.

C. Các tính đức đặc biệt của sự đoạn trừ

Trên trí địa này,  các tri kiến thô sơ về ngã, xem ngã là một hiện thể tự lập -- cùng với các tri kiến vi tế nối kết về ngã -- thì được đoạn trừ một cách toàn thể, cùng với các tri kiến về ngã của các hiện tượng (pháp ngã). Điều này nghĩa là các hạt giống hoặc các tập khí hướng về một sự tin tưởng vào ngã của cá nhân và ngã của các hiện tượng đều đã bị hủy diệt.

Nơi đây chấm dứt trí địa thứ tư hoặc cấp bậc thứ tư trong sự đào luyện tâm bồ đề tuyệt đối.    

--------------------------

Chú thích

1. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo ; Bodhipaksikadharma ; thirty-seven aids to enlightenment

(These consist of the four foci of mindfulness, the four right efforts, the four bases of magical powers, the five spiritual faculties, the five powers, the seven  factors of enlightenment, and the eight branches of the holy path)

gồm bốn niệm xứ( tứ niệm xứ), bốn tinh tiến (tứ chánh cần) ,bốn như ý túc , năm căn , năm lực, bảy giác chi, bát chính đạo.

-----------

2. Lười biếng: Skt. alasya: Có ba hình thức lười biếng: 1. lười biếng do chần chừ, lưỡng lự 2. lười biếng do sự lôi cuốn vào các hoạt động vô nghĩa 3. lười biếng do tự đánh giá thấp khả năng của mình (tự khinh mình; thối lui)     

Đức Đạt Lai Lạt Ma giảng:

Nếu chúng ta muốn thoát khỏi sự lười biếng không muốn làm những hành động tích cực, chúng ta nên nghĩ tới đời sống làm người của chúng ta ngắn ngủi như thế nào. Từ ngữ Sanskrit cho lười biếng, alasya, có nghĩa là “không sử dụng tới” ( “not to make use of ”). Bất kì hành động tích cực nào chúng ta thực hiện sẽ làm lợi ích cho chúng ta hiện nay và trong tương lai. Trên một phương diện khác, chúng ta tự buông thả để bị ảnh hưởng bởi các cảm xúc tiêu cực sẽ phá hủy chúng ta trong đời sống này và trong các đời sống tương lai, do thế chúng ta cũng nên tránh hoang phí  các đời sống của chúng ta xuyên qua loại lười biếng thứ nhì: bị tán loạn bởi các hành động tiêu cực.  

 VII.16.  Bạn nên xa lìa tính thờ ơ, hãy kết hợp các khả năng, tỉ dụ thận trọng và khôn ngoan, tự kiểm soát, tính bình đẳng giữa tôi và kẻ khác, và sự hoán chuyển tôi với các kẻ khác,

(The Dalai Lama. A Flash of Lightning in the Dark of Night. A Guide to the Bodhisattva's Way of Life. p. 79-80) ( Tụng 16 -- trích từ Tịch Thiên . Con đường Bồ Tát . Bản dịch Việt : Đặng Hữu Phúc)
-------------
Tịch Thiên. Con đường Bồ tát . Chương 7. Tinh Tấn

(Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc)

*

2. Tinh tấn là gì? Tinh tấn là nhiệt tình với công đức. Đối nghịch trực tiếp của tinh tấn là gì? Đó là lười biếng tâm linh (đại lãn tâm linh), bám vào điều đáng khiển trách, thờ ơ, và tự khinh mình [= thối lui].

3. Lười biếng tâm linh sinh khởi từ lười biếng, mê đắm các lạc thú, thích ngủ, và thèm khát la cà thơ thẩn do bạn thờ ơ trước các khốn khổ của sinh tử luân hồi.

38.  Tôi chưa đem đến vô úy cho những kẻ sợ hãi, tôi cũng chưa giúp đỡ những kẻ bị phiền não. Như vậy tôi chỉ như một cái móc làm mẹ tôi khổ đau khi cưu mang tôi trong thai tạng.

39.  Do vì tiền thân của tôi chẳng có mong cầu Pháp, thế nên tôi nay duyên hội bất hạnh như thế. Ai sẽ buông bỏ mong cầu về Pháp?

40.  Đức Phật tuyên bố mong cầu Pháp là gốc rễ của tất cả các hành động công đức, và thiền định liên tục về các kết quả của sự thuần thục của nghiệp là gốc rễ của lòng mong cầu Pháp.

41.  Các sự đau thương, các trầm cảm, các nỗi sợ hãi, và các nguyện vọng bị ngăn trở thì duyên hội xảy ra cho những kẻ làm ác hạnh.

42.  Bất cứ ở đâu lòng ham muốn của những kẻ dốc lòng làm thiện hạnh đi tới, ở đó các phúc đức của thiện hạnh sẽ là các hiến tặng của các kết quả thiện hạnh.

43.  Bất cứ ở đâu lòng ham muốn hạnh phúc của những kẻ làm ác hạnh đi tới, ở đó các nết xấu vô đạo đức phá hủy nó bằng các vũ khí của đau khổ.

44.  Do các công đức của mình, Các Người Con của Đấng Thiện Thệ,  cư trú trong lòng của các đoá sen khoáng đạt, thơm ngát, và mát mẻ, vẻ huy hoàng của họ được nâng cao với diệu âm của đấng Tối Thắng, và thân thể đẹp của họ hiện ra từ các đoá sen được nở do ánh sáng của Đấng Trí Tuệ (the Sage), họ được sinh ra trong sự hiện diện của đấng Thiện Thệ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12653)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12268)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11049)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10922)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13375)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11797)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13682)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11918)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11185)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12214)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12415)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20609)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12442)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12468)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11731)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11608)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22445)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13587)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29711)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11553)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16767)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12019)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16859)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12085)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17939)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12656)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13185)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14775)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22644)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10596)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14070)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13882)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13736)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13881)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13952)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14844)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13868)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18429)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22816)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15409)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17337)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22426)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14278)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12596)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11181)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17778)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13221)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13118)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18812)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17196)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13533)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12933)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14710)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14668)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15887)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13531)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27451)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13257)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16739)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21405)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant