Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bốn Cơ Hội Hiếm Có - Câu Chuyện Về Vua Rồng Erakapatta

16 Tháng Năm 201604:43(Xem: 7747)
Bốn Cơ Hội Hiếm Có - Câu Chuyện Về Vua Rồng Erakapatta

BỐN CƠ HỘI HIẾM CÓ
Câu Chuyện Về Vua Rồng Erakapatta,
Kệ 182 - Kho Báu Sự Thật, Kinh Pháp Cú

Minh Họa - Weragoda Sarada Maha Thero -
Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến - Hình Vẽ: P. Wickramanayaka  
Source-Nguồn: www.buddhanet.net

(Four Rare Opportunities - The Story Of Erakapatta The Nāga King, Verse 182 - Treasury Of Truth,
Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka)

Bốn Cơ Hội Hiếm Có - Câu Chuyện Về Vua Rồng Erakapatta


BÀI KỆ 182:

182. Kiccho manussapaṭilābho
kicchaṃ maccāna’jīvitaṃ
kicchaṃ saddhammasavanaṃ
kiccho Buddhānaṃ uppādo. (14:4)

182. Điều khó đạt được, là sinh ra làm người
Điều khó khăn của kiếp người, là sinh tử,
Điều khó làm, là gặp được Phật Pháp,
Điều hiếm thấy, là sự xuất hiện của một vị Phật.

Một thời Đức Phật cư trú gần Bārānasī(Ba La Nại), ngài đã nói bài kệ nầy, về Vua Rồng Erakapatta.

Ngày xửa ngày xưa, có một vị Vua Rồng tên là Erakapatta. Một trong những kiếp trước của ông là một nhà sư đã đi tu trong một thời gian rất lâu, vào thời Đức Phật Kassapa. Trong kiếp nhà sư nầy, ông đã lo lắng bởi vì ông vi phạm một giới nhỏ, nên ông đã tái sinh là một vị Vua Rồng. Trong lúc là một Vua Rồng, ông chờ đợi sự xuất hiện của một vị Phật. Erakapatta có một cô con gái rất xinh đẹp, và ông xử dụng cô như là một phương tiện để tìm kiếm Đức Phật. Ông đã cho mọi người biết rằng, bất cứ ai có thể trả lời đúng câu hỏi của công chúa, thì người đó có thể lấy công chúa làm vợ. Mỗi tháng hai lần, cô con gái của Erakapatta ra nhảy múa, và hát lên những câu hỏi trước công chúng. Nhiều chàng trai theo đuổi cô, muốn lấy cô làm vợ, nên đến trả lời các câu hỏi của cô, tuy nhiên, chẳng có ai cho câu trả lời đúng.

Một ngày kia, dưới tầm nhìn của Đức Phật, ngài trông thấy một thanh niên trẻ tên là Uttara. Đức Phật cũng biết rằng thanh niên nầy sẽ đạt Quả Nhập Lưu (Tu Đà Hoàn), qua sự kết nối với các câu hỏi của con gái Vua Rồng Erakapatta. Vào lúc đó, thanh niên trẻ nầy đang trên đường đi đến gặp cô con gái của Erakapatta. Đức Phật liền dừng anh ta lại, và ngài dạy anh cách trả lời các câu hỏi. Trong khi Đức Phật dạy bảo anh, Uttara đã đạt được Quả Nhập Lưu. Khi anh đã đạt được Quả Nhập Lưu rồi, anh không còn mong muốn lấy cô công chúa con của Vua Rồng làm vợ nữa. Tuy nhiên, Uttara vẫn muốn đi đến trả lời các câu hỏi của cô công chúa, với mục đích là giúp ích cho những chúng sanh khác.

Bốn câu hỏi đầu tiên là:

(1) Người cai trị là ai? (2) Người sống hoàn-toàn không-có đạo-đức, có được gọi là một người cai trị không? (3) Người cai trị nào mà sống có đạo-đức? (4) Loại người nào bị gọi là người ngu xuẩn?

Bốn câu trả lời cho các câu hỏi trên là:

(1) Người cai trị là người kiểm soát được sáu giác quan. (2) Người sống hoàn-toàn không-có đạo đức thì không được gọi là người cai trị; người mà không-còn lòng tham muốn được gọi là người cai trị (3) Người cai trị nào mà không còn lòng tham muốn, chính là người sống có đạo đức (4) Người đi tìm kiếm các thú vui nhục dục là một người ngu xuẩn.

Sau khi cô công chúa con Vua Rồng Erakapatta nghe được các câu trả lời chính xác như trên, cô công chúa bắt đầu hát tiếp các câu hỏi diễn tả các ham-muốn nhục-dục như là các trận lũ-lụt (oghas), câu hỏi về kiếp sống mới (tái sinh), về các giáo lý sai lầm và về sự thiếu hiểu biết, và phương-cách để giải-quyết các vấn-đề nầy. Uttara liền trả lời các câu hỏi nầy, giống như lời Đức Phật đã giảng dạy. Khi Erakapatta nghe các câu trả lời, ông biết rằng có một vị Phật đã xuất hiện trên thế gian nầy. Vì vậy, ông nhờ Uttara dẫn ông đến gặp Đức Phật. Khi gặp Đức Phật, Erakapatta kể chuyện là trong thời Đức Phật Kassapa, ông là một nhà sư, và khi ông du hành trên thuyền, ông vô tình làm một ngọn cỏ bị cắt đứt, ông đã lo lắng về việc vi phạm một giới nhỏ nầy, rồi ông đã không xin sám hối theo giới luật quy định, vì thế mà cuối cùng ông đã tái sinh làm một Vua Rồng. Sau khi nghe ông kể chuyện xong, Đức Phật nói với ông rằng, thật là khó khăn để được sinh ra làm người, và thật là khó khăn để sinh ra trong thời có các vị Phật, và thật là khó khăn để nghe được Phật Pháp

BÀI KỆ 182, CHUYỂN NGỮ TỪ TIẾNG PALI:

manussa paṭilābho kiccho maccāna jīvitaṃ kicchaṃ saddhamma savanaṃ kicchaṃ Buddhānaṃ uppādo kiccho

manussa paṭilābho: được làm người; kiccho: (là điều) khó khăn; maccāna: (vòng sinh tử) của con người; jīvitaṃ: cuộc sống; kicchaṃ: (là điều) khó khăn; saddhamma savanaṃ: được nghe Phật Pháp; kicchaṃ: (là điều) khó khăn; Buddhānaṃ uppādo: sự ra đời của một vị Phật; kiccho: là điều khó khăn và là điều hiếm có

Trong vòng sinh-tử, điều rất hiếm-có là được sinh ra làm người. Điều hiếm-có và khó-khăn là được cơ hội nghe giảng Phật Pháp. Điều thật sự hiếm-có là sự ra đời của một vị Phật.

Bài kệ 182 của Kinh Pháp Cú nầy, được anh Tâm Minh chuyển dịch thành thơ như sau:

(182) Khó mà sinh được làm người, Rồi ra sống được trọn đời khó hơn, Được nghe chánh pháp tuyên dương. Cũng là điều khó trăm đường mà thôi, Duyên may gặp Phật ra đời. Là điều hy hữu, tuyệt vời biết bao.

BÌNH LUẬN

maccāna jīvitaṃ: con người sống trong vòng sinh tử. Từ ngữ macca(con người) được dùng cho con người bởi vì ai sinh ra làm người thì cũng sẽ phải chết. Tất cả mọi hình thức của cuộc sống rồi sẽ phải chết. Tuy nhiên, từ ngữ macca có ý nghĩa quan trọng đặc biệt cho con người; bởi vì trong tất cả các loài động vật, con người là sinh vật duy nhất, mà có thể nhận-biết cái-chết là điều không thể nào tránh được. 

Source-Nguồn: http://www.buddhanet.net/pdf_file/dhammapadatxt1.pdf

SHORT TITLE:

The Story Of Erakapatta The Nāga King, Verse 182, Treasury Of Truth

FULL TITLE:

Four Rare Opportunities - The Story Of Erakapatta The Nāga King, Verse 182 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net

VERSE 182:

182. Kiccho manussapaṭilābho
kicchaṃ maccāna’jīvitaṃ
kicchaṃ saddhammasavanaṃ
kiccho Buddhānaṃ uppādo. (14:4)

182. Human birth is hard to gain,
hard for mortals is their life,
to come to Dhamma True is hard,
rare the Buddhas’ arising.

While residing near Bārānasī the Buddha spoke this verse, with reference to Erakapatta, a king of the nāgas.

Once there was a nāga king by the name of Erakapatta. In one of his past existences during the time of Kassapa Buddha he had been a monk for a long time. Through worry over a minor offence he had committed during that time, he was reborn as a nāga. As a nāga, he waited for the appearance of a Buddha. Erakapatta had a very beautiful daughter, and he made use of her as a means of finding the Buddha. He made it known that whoever could answer her questions could claim her for a wife. Twice every month, Erakapatta made her dance in the open and sing out her questions. Many suitors came to answer her questions hoping to claim her, but no one could give the correct answer.

One day, the Buddha saw a youth named Uttara in his vision. He also knew that the youth would attain sotāpatti fruition in connection with the questions put by the daughter of Erakapatta the nāga. By then the youth was already on his way to see Erakapatta’s daughter. The Buddha stopped him and taught him how to answer the questions. While he was being taught, Uttara attained sotāpatti fruition. Now that Uttara had attained sotāpatti fruition, he had no desire for the nāga princess. However, Uttara still went to answer the questions for the benefit of numerous other beings.

The first four questions were:

(1) Who is a ruler? (2) Is one who is overwhelmed by the mist of moral defilements to be called a ruler? (3) What ruler is free from moral defilements? (4) What sort of person is to be called a fool?

The answers to the above questions were:

(1) He who controls the six senses is a ruler. (2) One who is overwhelmed by the mist of moral defilements is not to be called a ruler; he who is free from craving is called a ruler. (3) The ruler who is free from craving is free from moral defilements. (4) A person who seeks for sensual pleasures is called a fool.

 Having had the correct answers to the above, the nāga princess sang out questions regarding the floods (oghas) of sensual desire, of renewed existence, of false doctrine and of ignorance, and how they could be overcome. Uttara answered these questions as taught by the Buddha. When Erakapatta heard these answers he knew that a Buddha had appeared in this world. So he asked Uttara to take him to the Buddha. On seeing the Buddha, Erakapatta related to the Buddha how he had been a monk during the time of Kassapa Buddha, how he had accidentally caused a grass blade to be broken off while travelling in a boat, and how he had worried over that little offence for having failed to do the act of exoneration as prescribed, and finally how he was reborn as a nāga. After hearing him, the Buddha told him how difficult it was to be born in the human world, and to be born during the appearance of the Buddhas or during the time of their teaching.

EXPLANATORY TRANSLATION (VERSE 182)

manussa paṭilābho kiccho maccāna jīvitaṃ kicchaṃ saddhamma savanaṃ kicchaṃ Buddhānaṃ uppādo kiccho

manussa paṭilābho: winning human existence; kiccho: (is) difficult; maccāna: of mortals; jīvitaṃ: life; kicchaṃ: (is) difficult; saddhamma savanaṃ: hearing the Dhamma; kicchaṃ: (is) difficult; Buddhānaṃ uppādo: the birth of the Buddha; kiccho: is difficult and rare

It is rarely that one is born as a human being, in this cycle of rebirth. It is difficult and rare to get the opportunity to hear the good teaching. It is, indeed, rare for the birth of a Buddha to occur.

COMMENTARY

maccāna jīvitaṃ: life of a mortal. The word macca (mortal) is applied to a human being because he is subject to death. All forms of life are subject to death. But the term macca is especially significant to human beings; because, of all animals, the human beings are the only ones that can become aware of the inevitability of death.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12651)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12266)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11047)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10921)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13373)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11795)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13676)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11915)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11185)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12211)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12414)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20607)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12441)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12467)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11730)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11605)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22443)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13587)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29705)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11553)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16761)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12018)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16856)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12084)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17938)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12654)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13181)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14773)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22641)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10596)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14060)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13880)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13731)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13880)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13951)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14843)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13864)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18429)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22813)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15406)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17334)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22426)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14275)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12595)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11180)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17778)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13220)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13117)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18809)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17191)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13523)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12930)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14709)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14666)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15885)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13529)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27450)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13256)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16737)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21404)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant