Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thường Bất Khinh

20 Tháng Bảy 201617:31(Xem: 7885)
Thường Bất Khinh

THƯỜNG BẤT KHINH

Nguyễn Thế Đăng

Thuong Bat Khinh

 

Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh? Tỳ-kheo ấy mỗi khi thấy Tỳ-kheo, Tỳ-kheo Ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, đều lễ bái tán thán mà nói rằng: ‘Tôi kính trọng sâu xa các vị, không dám khinh mạn. Vì sao như vậy? Các vị đều hành Bồ-tát đạo, sẽ được làm Phật’. Vị Tỳ-kheo đó chẳng chuyên tụng đọc kinh điển, chỉ thực hành lễ bái tán thán mà nói rằng: Tôi không dám khinh thường quý vị, quý vị đều sẽ làm Phật”. (Phẩm Bồ-tát Thường Bất Khinh, thứ 20).

Vị Tỳ-kheo ấy chẳng dám khinh người mà thường kính trọng sâu xa vì nơi mỗi người đều có Hoa sen Diệu pháp, đều có Phật tánh. Thậm chí đối với người thấp kém, xấu ác, Tỳ-kheo ấy vẫn một lòng kính trọng.

“Trải qua nhiều năm như vậy, thường bị mắng nhiếc, chẳng sanh giận hờn, thường nói: ‘Các vị sẽ làm Phật’. Khi nói như vậy, người ta lấy gậy cây gạch đá để đánh ném. Ông chạy tránh ra xa mà vẫn cao giọng xướng rằng: ‘Tôi chẳng dám khinh các người, các người đều sẽ thành Phật’. Bởi ông thường nói như vậy nên các Tăng, Ni, cư sĩ kiêu mạn quá mức gọi ông là Thường Bất Khinh”.

 Nhờ làm hạnh thường chẳng khinh này vị Tỳ-kheo ấy dần dần ngộ nhập kinh Pháp Hoa. Vị Tỳ-kheo ấy chính là Phật Thích-ca Mâu-ni thuở còn là Bồ-tát.

Thấy tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đó là cái thấy biết của Phật. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đây là nền tảng của Kinh Pháp Hoa. Tất cả các pháp môn trong Kinh Pháp Hoa đều khởi từ Nền tảng này để thành tựu trong chính Nền tảng Nhất thừa này.

Thấy được như vậy và giữ được cái Thấy ấy không mất, đây là Thiền định. Thực hành cái thấy ấy qua hành động thân khẩu ý, đây gọi là Hạnh. Cái Thấy, Thiền định và Hạnh đã tròn vẹn, đó là Quả.

Bồ-tát Thường Bất Khinh có thái độ như vậy vì ngài thấy chúng sanhPhật tánh:

“Bồ-tát Thập Trụ, chư Phật mắt thấy chúng sanh có sẵn Phật tánh. Bồ-tát Thập Trụ thấy Phật tánh được một ít phần. Phật thì thấy Phật tánh trọn vẹn. Bồ-tát Thập Trụ thấy Phật tánh như đêm tối thấy hình sắc; Phật thấy Phật tánh như giữa ban ngày thấy hình sắc”. (Kinh Đại Bát Niết-bàn, phẩm Bồ-tát Sư tử hống).

Thấy chúng sanh có sẵn Phật tánh, có sẵn Hoa sen Diệu pháp là cái thấy của bậc Thập Trụ đi dần đến quả Phật. Thiền sư Chân Nguyên (1647-1726) nói trong Thiền tông bản hạnh:

               Thuở xưa hội cả Kỳ Viên

               Bụt cầm một đóa hoa sen giơ bày

               Ca-diếp trí huệ cao tay

               Liễu ngộ tự tánh bằng nay mỉm cười

               Trần trần sát sát Như Lai

               Chúng sanh mỗi người mỗi có hoa sen

               Hoa là bản tánh tự nhiên

               Bao hàm thiên địa phương viên cùng bằng

                Hậu học đã biết hay chăng

               Tâm hoa ứng miệng nói năng mọi lời

               Thiêng liêng ứng khắp mọi nơi

               Lục căn vận dụng trong ngoài thần thông.

Tại sao cái thấy chúng sanh có sẵn Phật tánh đưa hành giả đến giác ngộ? Bởi vì trong cái thấy ấy có Trí huệTừ bi, là hai cột trụ của Đại thừa.

Cái thấy tất cả chúng sanh đều có Phật tánh xóa đi sự phân biệt giả tạo giữa ta và người, xóa đi một cái ta cô lập với người khác và thế giới, đưa hành giả vượt khỏi bốn tướng ta, người, chúng sanh, thọ mạng. Lìa các tướng phân biệt, chia cắt tạo thành sanh tử khổ đau, đó là trí huệ.

Cái thấy chúng sanh đều có Phật tánh khiến cho hành giả mở rộng tâm để hòa nhập với tất cả chúng sanh. Đây được gọi là đồng thể đại bi.

Hạnh lễ bái bằng một cái tâm thường chẳng khinh vì ai cũng có Phật tánh đã chuyển hóa những nghịch duyên giận hờn, khinh bỉ, chia rẽ thành duyên gặp gỡ trong chính Phật tánh khi vị Bồ-tát thành Phật:

“Đắc Đại Thế! Ý ông thế nào? Bốn chúng có lòng giận hờn khinh bỉ vị Bồ-tát thuở đó đâu phải ai xa lạ, chính là các ông Bạt-đà-bà-la năm trăm Bồ-tát, các ông Sư Tử Nguyệt năm trăm Tỳ-kheo, Các ông Ni-tư-phật năm trăm cư sĩ nam, nay đang ở trong hội này, đều là những người không thối chuyển với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Đắc Đại Thế! Phải biết kinh Pháp Hoa này rất lợi ích cho các Đại Bồ-tát, có thể làm cho đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thế nên các Đại Bồ-tát sau khi Như Lai diệt độ phải thường thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép kinh này”. (Phẩm Bồ-tát Thường Bất Khinh, thứ 20). 

Bồ-tát Thường Bất Khinh đã thường thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép kinh Pháp Hoa này bằng chỉ một hạnh lễ bái tán thán, “tôi không dám khinh thường các vị, các vị đều sẽ thành Phật” cho nên “có thể mau được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”. Nhờ hạnh thường chẳng khinh ấy mà cuối cùng thấy thật tướng của chúng sanhPhật tánh. Thấy trọn vẹn Phật tánh tức là thành Phật.

Thấy rõ ràng Phật tánh nghĩa là thấy không có sự vật nào, không có chúng sanh nào ở ngoài Phật tánh. Như thấy rõ ràng tấm gương thì thấy không có một bóng nào ở ngoài tấm gương. Cho nên khi thấy không có sự vật nào, chúng sanh nào ở ngoài Phật tánh, khi ấy chúng ta đang ở trong Phật tánh.

Bất cứ khi nào chúng ta hành hạnh Thường Bất Khinh bằng thân khẩu ý của mình, khi ấy chúng ta đang tập làm theo sự phóng quang của Đức Phật. Phóng quang là phóng ánh sáng của Phật tánh “soi khắp một muôn tám nghìn cõi ở phương Đông, đều thấy sự trang nghiêm của các cõi nước Phật ấy” (Phẩm Tựa), “khiến những cõi nước thông làm một cõi nước Phật” (Phẩm Hiện Bửu tháp), như Đức Phật đã làm nhiều lần trong kinh. Sức mạnh của ánh sáng ấy là trí huệtừ bi để “thống nhất Phật độ”.

Hành hạnh Thường Bất Khinh bằng thân khẩu ý của mình là phóng quang để thống nhất thành một cõi Phật, tức là thành pháp giới Nhất Chân Pháp Hoa. Hành hạnh Thường Bất Khinh sẽ đưa chúng ta dần dần “nhập” pháp giới Nhất Chân Pháp Hoa ấy.

(Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 248)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3498)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 7355)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4525)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4579)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7353)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2972)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12221)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 4000)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3814)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4230)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3691)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5072)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6695)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4013)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4130)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5346)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3793)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4540)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3562)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3935)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4397)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5396)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3849)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3942)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3880)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4832)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4531)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4272)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3845)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4648)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4214)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6121)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4612)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4957)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4198)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4834)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5673)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3656)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4054)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4596)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5291)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3151)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4768)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4564)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4303)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4751)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4499)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4609)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7233)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5217)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5011)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4601)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5621)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5282)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4165)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6024)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4722)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4886)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5495)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5625)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant