Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thái Độ Tâm Linh Của Đạo Phật

07 Tháng Mười Một 201607:05(Xem: 8637)
Thái Độ Tâm Linh Của Đạo Phật

THÁI ĐỘ TÂM LINH CỦA ĐẠO PHẬT

Tỳ-kheo THÍCH MINH CHÂU
Bài diễn thuyết tại Đại Học Văn khoa Sài Gòn ngày 6 tháng 4 năm 1967.

Thái Độ Tâm Linh Của Đạo Phật

 

Kính thưa quý vị,

Giữa thời thế điêu linh này, sự hiện diện của quý vị trong buổi nói chuyện hôm nay đã nói lên ý thức mở rộng của quý vị trước một đề tài mà có thể có người cho rằng không mấy hấp dẫn lắm. Trước những tin tức dồn dập của chính trường quốc tế và chiến sự Việt Nam, trước những biến thiên dữ dội của đời sống xã hội thời loạn, một đề tài nói chuyện nhan đề “Thái độ tâm linh của đạo Phật” có tính cách không được thiết thực lắm và dễ trở thành một đề tài trí thức thông thường của đời sống Đại Học hoặc cũng dễ trở thành một bài thuyết pháp nặng mùi tín điều tôn giáo mà người nói chỉ là người truyền đạo đứng trên cao nhìn xuống cuộc đời dưới kia.

Không phải thế. Chúng tôi không nghĩ vậy. Nơi diễn đàn hôm nay, chúng tôi sẽ cố gắng trình bày vài ba điểm cần thiết để đánh tan những ngộ nhận có thể có được của người xa lạ với tư tưởng chính yếu của đạo Phật. Trước hết, chúng tôi xin vào đề ngay rằng đạo Phật không phải là một tôn giáo, dù nghĩa “tôn giáo” hiểu theo truyền thống Tây phương hay Đông phương. Nói đến “tôn giáo” là nói đến “tín ngưỡng”, “giáo hội”, “giáo quyền”, “thần quyền”, “thần khải”, v.v... Đạo phật gồm có đủ những điều vừa kể, nhưng điều quan trọng nhất là tất cả chúng ta cần phải lưu tâm: Những điều vừa kể không làm đạo phật trở thành đạo phật, mà chỉ là những hình thức tất yếu xuất phát từ sự thoái hóa tinh thần của những người tự nhận là theo đạo Phật. Đạo phật không phải là “tôn giáo” mà cũng không phải là “triết lý” hay “triết học”. Tư tưởng triết lý của đạo Phật chỉ là hậu quả tất yếu của sự sinh thành biện chứng trong sinh hoạt tâm linh của người theo đạo Phật.

Người ta thường hay nhấn mạnh đến khía cạnh thực tế, thực tiễn của đạo Phật trước những vấn đề quan trọng của đời sống; vì thế có người cũng đã từng cho rằng đạo Phật là một chủ nghĩa thực nghiệm, một thứ “positivisme” gần gần như Auguste Comte, một thứ “empirisme” hay “Phénoménisme” gần gần như David Hume, một thứ “Pragmatisme” gần gần như William James. Rồi cũng có người đem so sánh phật giáo với những hệ thống triết lý đi ngược lại với những thứ triết lý duy thực, duy nghiệm: họ nói Phật giáo gần gần với triết lý hiện sinh của Jean-Paul Sartre, gần gần với phương pháp trị liệu của phân tâm học hiện đại theo điệu Carl Jung hay Erich Fromm, v.v.... Nói tóm lại thì họ đã mang đến đạo Phật những nhãn hiệu hoàn toàn mâu thuẫn đối nghịch nhau và hoàn toàn xa lạ hẳn với tinh túy của đạo Phật.

Tất cả những sự việc lạ lùng trên chỉ nói lên sự ngộ nhận ngay từ căn bản của những người có thiện chí đi đến với đạo Phật. Sự ngộ nhận này xuất phát từ một thái độ sai lầm của người muốn tìm hiểu đạo Phật, dù người muốn tìm hiểu ấy có thiện chí hay thiếu thiện chí, dù đứng bên trong truyền thống Phật giáo hay đứng bên ngoài. Sự ngộ nhận ấy xuất phát từ một sự ngộ nhận thái độ. Thái độ của người tìm hiểu đã sai lầm ngay nền tảng, vì thế đạo Phật chỉ là một đề tài cho sự hiếu kỳ trí thứchình thức của đạo Phật lại trở thành quan trọng hơn tinh thần sống động của đạo Phật: Người ta chỉ tìm hiểu đạo Phật để so sánh, để thỏa mãn óc hiếu kỳ, để khai triển trí thức, để ca tụng hoặc chống đối, để nhận là của mình hay không phải của mình; người ta không nhìn đạo Phật như là đạo Phật, mà lại nhìn đạo Phật như là tôn giáo vô thần hoặc hữu thần, như là triết lý duy thực hoặc duy tâm, như là tín ngưỡng hoặc tín điều.

Thế nào là nhìn đạo Phật như là đạo Phật?

Đạo Phật như thế thì mình nhìn như là thế. Chữ kinh Phật thường thường mở đầu là: “Như thị ngã văn”. “Như thị ngã văn” có nghĩa là “tôi nghe như vậy”; đó là lời đức Phật dạy ông Ưu-ba-ly và A-nan phải mở đầu các kinh bằng bốn tiếng ấy (cf. Trí Độ Luận).  “Như thị ngã văn”. Có nghĩa là tôi nghe như thế nào thì tôi nghe đúng như vậy, tôi nghe đạo Phật như là đạo Phật. Nghe đạo Phật như là đạo Phật cũng đồng nghĩa với việc nhìn thấy đạo Phật như là đạo Phật. Muốn nhìn thấy cho đứng đắntrung thực thì phải có một thái độ đứng đắn và trung trực, Đứng giữa cuộc đời, mỗi người đều có một thái độ nào đó; “Thái độ” cũng đồng nghĩa với “quan điểm”; “quan điểm” là điểm, chỗ mình thấy. “Quan”, là thấy, nhìn thấy, dịch lại chữ Pali chính là “dassana”. Biết nhìn thấy là điều quan trọng trong đời sống; đạo Phật thường hay nhấn mạnh đến sự nhìn thấy: chúng ta thường thấy những chữ “kiến”,”quan” (quán) rải rác trong tất cả Kinh luận Phật giáo. “Chánh kiến” (sammā diṭṭhia) là con đường đầu tiên, con đường thứ nhất trong tám con đường chân chính (bát chính đạo), tất cả ý nghĩa của Thiền tông xoay về nơi hai chữ Kiến tánh, tất cả ý nghĩa của tất cả những tông phái của Phật giáo có thể thu gọn trong câu: “Khiến tà kiến thành chơn chánh” (mà chữ Pali gọi là: “Diṭṭhijjukamma”).

Thấy và thấy đúng, đó là ý nghĩa giản dị và phức tạp của đạo Phật. Thấy và thấy đúng, đó là con đường của tất cả mọi con đường. Đạo Phật mở mắt chúng ta để thấy. Thấy sự vật như là sự vật, thấy sự vật đúng với sự thật; kinh luận Pali gọi sự thấy ấy là Vipassanā (quán): Thiền định, Bhāvanā có hai loại: Samatha (chỉ) và Vipassanā (quán); nhờ tu samatha mà chứng được Abhiññā (thắng trí thần thông); còn nhờ vipassanā (quán) mà chứng được thánh quả.

Điểm thứ nhất mà khi đề cập tới thái độ tâm linh của đạo Phật chúng tôi cần phải lưu ý quý vị là sự quan trọng của việc thấy trong đời sống nội tâmngoại giới của chúng ta. Chúng ta có mặt, nhưng chúng ta vẫn không thấy, và nếu có thấy chăng thì chỉ thấy sai; chữ nhà Phật gọi là “Tà kiến” (Micchādiṭṭhi diṭṭhigata). Tà kiếntai họa lớn nhất trong đời sống; tà kiến còn nguy hiểm và khó trị hơn là chiến tranh, đói rách và thiên tai. Tà kiến khiến con người trở thành một con thú bần tiện nhất trên đời. “Kiến điên đảo” là thấy sự vật đảo ngược lại, chấp hư làm thực, chấp vọng bỏ chân; “kiến phược”, “Kiến thủ kiến” (chữ phạn: Drstipāmārsa), “kiến chướng”, “kiến kiến”, “kiến võng”. “Kiến trọc” (Drsti-kasāya) “kiến ái”, “kiến tư”, “kiến độc” là những chữ thông dụng trong kinh luận đạo Phật để chỉ sự thấy sai của con người, để chỉ sự nô lệ của ý thức, sự sa đọa của kiến thức, sự sa lầy của con người trên con đường trở về Tự do An lạc.

Hai tông phái quan trọng trong những tông phái quan trọng nhất của Phật giáo như Tam Luận tôngThiền tông cũng đưa con người trở về sự thấy chân chính: yếu chỉ của Tam luận tông (cũng gọi là Trung quán luận, Mādhya-mika) cũng xoay quanh trong việc phá bỏ tất cả những sự thấy sai lầm, những “kiến” (drsti) phá bỏ những giáo thuyết tín điều (drsti-vāda) những thứ “ngã kiến” (ātma-drsti satkāya-drsti) “vô kiến” (vibhava-drsti), "hữu kiến" (bhava-drsti) để thể nhập Chân không (sūnyatà); yếu chỉ của Thiền Tông đã được cô đọng trong câu “kiến tánh thành Phật” nghĩa là thấy tự tánh mình vốn vẫn thanh tịnh. “Kiến tánh” cũng đồng nghĩa với “kiến Phật”. Trong Pāli Abhidhamma, có nói đến Dhammacakkhu (pháp nhãn). Nói đến quả của sắc giới thiện nghiệp, hành giả có niệm (sāti) mãnh liệt, lấn át các đức tánh khác, thì được sanh vào cõi “thiện kiến thiên” (Pāli: Sudassa); chữ “Thiện kiến thiên” ở đây mang ý nghĩa tượng trưng cho kết quả của sự thấy chân chính.

Nơi đây, không phải là chỗ để chúng tôi trưng dẫn kinh điển và một mớ thuật ngữ Phật giáo bằng Phạn ngữ, Pāli và Hán ngữ. Chúng tôi chỉ muốn trình bày sơ lược đôi thí dụ cụ thể để cho quý vị thấy rằng vai trò quan trọng của Pháp nhãn (Dhammacakkhu) trong thái độ tâm linh của đạo Phật. Ngày xưa, những vị thiền sư cũng thường gọi Đạo Phật là “chánh pháp nhãn tạng”, như việc tổ sư trao truyền “chánh pháp nhãn tạng” lại cho đệ tử. Thấy đúng nghĩa là thấy thì có nghĩa là thấy đúng sự thật, thấy sự thật như là sự thật. Tất cả ý nghĩa của thái độ tâm linh trong đạo Phật có thể tóm gọn vào việc thấy. Trong tư tưởng hiện đạiTây phương, không ai mà không nghe đến tên tuổi của linh mục Pierre Teilhard de Chardin, một nhà bác học và một tư tưởng gia nổi danh khắp thế giới. Trong cuốn Le Phénomè Humain, Teilhard de Chardin cũng thường đặt tất cả sự quan trọng vào động từ “voir”. Đối với Teilhard de Chardin thì tất cả đời sống chỉ thu gọn vào việc thấy: “Voir. On pourrait dire que toute la vie est là” (cf. Le Phénomè Humain, Édition du Seuil, 1957, p25). Teilhard de Chardin lại còn nói mạnh hơn: “Voir ou périr” (cf. op. cit. p 25). Sự thống nhất nhân loại chỉ có thể được hình thành nhờ sự khai triển rộng lớn phạm vi ý thức của con người, mà mở rộng ý thức chính là khai mở thị quan (Teilhard de chardin: “L'Unité ne grandit que supportée par un accrois-sement de conscience; c'est à dire de vision”; cf. op. cit. p.25). Các “vũ trụ hội tụ” (l'univers convergent, cf. op.cit. p. 344) mà Teilhard de Chardin muốn đưa tới thì cũng chỉ là sự đồng nhất giữa khách thể và chủ thể trong việc biến chuyển hỗ tương để đưa đến kiến tri toàn diện: “Con Người tự tìm lại mình và tự nhìn mình trong tất cả những gì mình thấy (Objet et subjet s'éspousent et se transforment mutuellement dans l'acte de connaissan-ce. Bon gré mal gré, dès lors, l'Homme se retrouve et se regarde lui même dans tout ce qu'il voit” cf. op. cit. p. 26).

Thái độ tâm linh của đạo Phật bắt đầu bằng “chánh kiến”. Chánh kiến là thấy mọi sự đúng như thật, và Tứ Diệu Đế giải thích sự thấy như thật ấy. “Chánh kiến” tức là thấy hiểu Tứ Diệu Đế: đó là thấy được Thực tại tối hậu. Bất cứ người nào tự nhận là Phật tử thì ít nhất cũng có một kiến thức sơ đẳng, thu gọn trong Tứ niệm xứ:

1. - Quán thân bất tịnh;
2. - Quán thọ thị khổ;
3. - Quán tâm vô thường;
4. - Quán pháp vô ngã;

Chữ “quán” (thấy) nằm trong “tứ niệm xứ”; “tứ niệm xứ” mở ra “tứ vô lượng tâm”, con đường dứt trừ dục ái, sân hận, nhiễm ôđạt đến tự tại.

Đó là nền tảng sơ đẳng cho thái độ của đạo Phật. Gọi là thái độ tâm linh, vì thái độ ấy đưa con người đến đời sống tâm linh. Một điểm quan trọng chúng tôi thấy cần phải nêu lên là “tâm linh” ở đây không có nghĩa như chữ La tinh "Spiritus", “animus”, “anima”, “ratio”, “transcendens”, v.v..., như trong ý nghĩa của truyền thống kinh viện Trung cổ ở Tây phương. Ở đây, “Tâm linh” được hiểu theo nghĩa “Tâm” trong chữ “Citta” của Kinh điển Phật giáo: đạo Phật không hề tách rời phân chia “Tâm” (citta) và “sắc” (Rūpa), vì cả hai đều liên đới dính líu tương quan. Đó là sự khác nhau căn bản giữa chữ “Tâm” trong đạo Phật và chữ “Tâm” trong những hệ thống tôn giáo triết lý Tây phương. Tâm lý học Phật giáo như môn học Abhidhamma không phải là học về “tâm” theo nghĩa "psyché" của Hy-lạp mà lại học về “sắc giới tâm”, “vô sắc giới tâm”, “siêu thế tâm”, tức là những vấn đề vượt ra ngoài sự hiểu biết hiện tại nông cạn và có giới hạn của chúng ta.

Điểm quan trọng khác trong đạo Phậtchúng ta nên lưu tâm đặc biệt là “kinh nghiệm tâm linh” (tạm dịch là chữ Pháp cho dễ hiểu là “réalisation métaphysi-que”, “réalisation spirituelle”, “expérience spirituelle”, “expérience mystique”). Tất cả những tông phái Phật giáo đều hướng chúng ta đến cứu cánh duy nhấtkinh nghiệm tâm linh; nói khác đi là không phải chỉ lý thuyết thôi mà phải sống theo lý thuyết bằng thực tếkinh nghiệm, “Trí đức song tu”. Đạo Phật không phải là hình thức giáo điều mà là hướng dẫn trên một phương hướng phương pháp, đưa đến một sự chứng cá nhân (réalisation de soi, vérité-pour-soi); đạo Phật không chối bỏ siêu hình, nếu siêu hình được khám phá bằng con đường kinh nghiệm cá nhân, đạo Phật chuyển hóa siêu hình thành kinh nghiệm thành thái độ, gọi tắt là thái độ tâm linh. Thái độ tâm linh ấy là tu quán (gọi lại chữ Pāli là: vipassanā), tu chính sắc giới tâm và vô sắc giới tâm với những phương pháp thiền định của sắc giới tâm và vô sắc giới tâm. Mỗi đối tượng có một phương pháp riêng và mỗi phương pháp đều có tính cách uyển chuyển, tùy cơ, tùy thời.

Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này. Thái độ tâm linh của đạo Phật không phát sinh từ ý thức về một đấng Phạm Thiên, một Thực thể tối cao, siêu việt. Ngược lại, thái độ tâm linh của đạo Phật nằm trong con người, do con người, bởi con người và cho con người. Nói như thế, không có nghĩa là đạo Phật chỉ nằm trong bình diện “tại thể tính” (plan immanent); nói như danh từ thần học Thiên chúa giáo. Không phải thế. Những ý niệm như “siêu việt tính” (transcendance) và “tại thể tính” (imma-nence) không thể áp dụng vào đạo Phật; đạo Phật đứng bên ngoài những ý niệmtính cách phân biệt của ngôn ngữ thần học. Đạo Phật xuất hiện cho con người, nhưng nói thế không có nghĩa là đạo Phật đặt con người làm trung tâm điểm vũ trụ, hiểu theo chữ “anthropocentrisme”. Hiểu như thế thì chỉ giới hạn đạo Phật vào một hoàn cảnh giới hạn của con người, chỉ thấy hiện thể mà chối bỏ tiềm thể và phân ly chia rẻ con người ra ngoài tính cách nhất thể của vũ trụ; thái độ tâm linh của đạo Phật là trả con người lại cho con ngườicon người chỉ là con người khi con người không còn chấp vào nhân tính, chấp ngã, chấp nhân; nói gọn lại thì con người phải tự chuyển tánh để đạt đến Phật tính. Đạo Phật không phải là chủ nghĩa nhân bản (humanisme) và cũng không phải là một chủ nghĩa phi nhân bản (anti-humanisme), vì tất cả chủ nghĩa nhân bản (hay phi nhân bản) đều được thành lập căn cứ trên một quan điểm cố định về bản chất con người (essence humaine, nature humaine). Phi nhân bản cũng là nhân bản, vì phủ nhận nhân bản này để chấp nhận nhân bản khác; tất cả chủ thuyết nhân bản đều nhìn nhận rằng con người (homo) chỉ là người khi con người trở lại chất người, trở lại nhân tính (humanitas) trả con người (homo) lại bản vị làm người (humanus). Chủ nghĩa phi nhân bản chối bỏ nhân tính (homo humanus) để ca tụng phi nhân tính (homo non-humanus), nhưng cả hai trường hợp đều đồng một quan điểmlập luận trên một cứ điểm về bản chất, bản tính của con người (essence, nature humaine). Đạo Phật không nhận bằng con người có một bản chất, bản tính, hiểu theo nghĩa “substance” “nature” hay “essence” hay “ego”, vì lý do quá rõ ràngđạo Phật nhấn mạnh về tính cách vô ngã của con người. Tất cả chủ nghĩa nhân bảnphi nhân bản đều nhận rằng con ngườingã tính (ego); tất cả thái độ tâm linh của đạo Phật chỉ là phá bỏ kiến chấp, tức là phá ngã và phá chấp, đưa con người vượt lên trên con người để vươn đến Phật tính; thái độ ấy là chuyển nhân bản thành Phật bản.

Muốn đưa nhân bản đến Phật bản thì phải thấy sự thật như là sự thật, nghĩa là thấy Tứ Diệu Đế. Muốn thấy được sự thật trên thì phải tự mình thấy cho mình, không thể nhờ người khác thấy thế cho mình, không thể nô lệ vào tín điều, vào ý kiến, vào quan điểm, vào một đấng tối cao ở trên cao hoặc ở dưới cuộc đời này.

Đạo Phật mời chúng ta hãy tự lên đường, không hành lý, không vướng bận nô lệ vào thần quyền hay nhân quyền; đạo Phật mời chúng ta hãy đứng lên tự gánh lấy trách nhiệm của riêng mình trước đời sống; con đường của đạo Phậtcon đường đưa dẫn đến sự thấy chân chính, “khiến tà kiến thành chân chánh” (Ditthijjukamma), đó là con đường duy nhất đưa đến một đời sống tâm linh cao đẹp, mà thể hiện rõ ràng nhất là tinh thần Vô tâm được thể hiện trên nụ cười trác việt của đức Phật, nụ cười thầm lặng của Đông phương trước những cơn vũ bão tàn phá của cơ khí Tây phương, nụ cười kín đáo ấy chứa đựng tất cả ý nghĩa phong phú của đạo Phật, thái độ tâm linh của đạo Phật  trước nỗi phân ly đau đớn của quê hương hiện nay.

Kính chào quý vị.
TỲ kheo Thích Minh Châu
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34627)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32228)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30445)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30714)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 21042)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20217)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19455)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24404)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30715)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15710)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27830)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19791)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15590)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23281)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23601)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17553)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15731)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21937)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 38059)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22219)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23291)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21395)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28448)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32598)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25227)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34721)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 22994)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27750)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31339)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13621)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25237)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27877)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22138)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20764)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22232)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27189)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24178)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21959)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14748)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23208)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 24054)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21167)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14224)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19965)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22558)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14097)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 28077)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22886)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28239)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 11031)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28537)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31615)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26230)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 15003)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28059)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7483)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25406)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20723)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21157)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12276)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant