Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tương Ưng Và An Trụ

06 Tháng Sáu 201704:50(Xem: 6381)
Tương Ưng Và An Trụ

TƯƠNG ƯNG VÀ AN TRỤ 

Nguyễn Thế Đăng


Tương Ưng Và An Trụ


Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để tương ưng và an trụ nơi chân lý ấy để “có thể thấy biết như chân lý:

Đây là người quán sát
Nơi các pháp ngôn giáo
Mà hay bình đẳng nói
Thường trụ tánh bình đẳng.
Đây là người quán sát
Nơi các pháp ngôn giáo
Như lý hay thấy biết
Bèn được khéo tương ưng…
Thuần một không trái cãi
Dứt tranh luận, tương ưng
Thành tựu tam muội ấy
Như lý mà an trụ.
Trong nghĩa lý các pháp
Như lý chuyên tu tập
Thấy được các cửa pháp
Đây là người thấy pháp
.

Tu hànhtương ưng và an trụ trong pháp tánh. Tương ưng là thấy biết đúng như lý, như chân lý. Để có thể “thấy Pháp” thì phải quán sát như lý, đúng theo chân lý tánh Không, ánh sáng, và như huyễn. Đây là ba phương diện, ba chiều kích của thực tại, cả mặt biểu lộ và không biểu lộ.

Quán tánh Không để tương ưng và an trụ trong Pháp thân tánh Không. Ở đây chỉ trích ra một ít đoạn về quán tánh Không.

“Bạch Thế Tôn! Con cũng chẳng thấy nhẫn đến có chút pháp nào ở trong, ở ngoài, ở trung gian mà có thể hướng đến được, thân cận được. Đã không có chút pháp nào để hướng đến được, thân cận được, thì ở trong ấy con an lập cái gì?

Bạch Thế Tôn! Con cũng chẳng thấy quá khứ hiện tại vị lai để làm chỗ an lập. Nếu chỗ an lập đã vô sở hữu, con có thể an lập ở chỗ nào?”.

Không thấy có chút pháp nào tức là thấy Vô tướng. Không thấy quá khứ hiện tại vị lai làm chỗ an lập tức là thấy Vô niệm. Đây là cái Tại đây, không có tướng, không có không gian nên mở khắp tất cả nơi chốn; là cái Bây giờ, không có tưởng niệm nên không có thời gian, trùm suốt ba thời.

“Các Đại Bồ-tát nơi nghĩa lý pháp mà an trụ. An trụ như vậy là an trụ nơi vô trụ, không có chỗ an trụ mà an trụ, thấy tất cả pháp không có chỗ phân biệt. An trụ nơi hạnh vô phân biệt như vậy, dùng hạnh như vậy thấy tất cả pháp không có chỗ động thì an trụ nơi lý Chân như, tương ưng với Chân như bất động, tương ưng với lý Chân như vốn không nắm giữ”.

Tâm không phân biệt thì thấy tất cả pháp không động, đó là an trụ Chân như hay tánh Không bất động.

Thấy các pháp vô sanh, đó là thấy tánh Không vô sanh. Và vô sanh cũng là vô niệm, tất cả pháp vốn không chỗ động: “Dùng ấn vô sanh ấn tất cả các pháp, nên các Đại Bồ-tát phải nhập vào ấn môn sanh chánh trí thấy vô sanh. Dùng ấn vô niệm ấn tất cả các pháp, nên các Đại Bồ-tát phải nhập vào ấn môn vô phân biệt chân thật bình đẳng”.

Tu hành như vậy trong từng niệm niệm, thì trong từng niệm niệm hành giả tương ưng và an trụ tánh Không.

Về ánh sáng các pháp, kinh nói như sau: “Này Vô Biên Huệ! Các Đại Bồ-tát ở nơi môn tất cả pháp vô chướng ngại, môn chẳng hòa hiệp, môn vượt khỏi mọi đoạn kiến thường kiến, môn bờ mé vô biên, vì xa lìa vậy, vì tịch diệt vậy, vì dừng dứt vậy, vì trong mát vậy. Các Đại Bồ-tát ở nơi ấn môn tất cả pháp ấy tùy học tùy nhập. Vì khéo tu hành các pháp môn ấy mà được tam muội hải ấn, ấn tất cả pháp. Các Đại Bồ-tát khéo tu hành, an trụ nơi tam muội hải ấn ấn tất cả pháp, quan sát tất cả pháp mà có thể phát sanh vô lượng vô biên ánh sáng đại pháp”.

Tam muội hải ấn ấn lên tất cả pháp khiến tất cả pháp tịch diệt, và khi tất cả pháp tịch diệt thì ánh sáng tất cả pháp hiển lộ. Nói cách khác, tam muội hải ấn, cũng tức là tâm, vừa là tánh Không tịch diệt, vừa là ánh sáng các pháp, mà người xưa gọi là Không-Minh vậy.

Bồ-tát vì đại bi mà sống trong sanh tử, trong thế gian khổ, vô thường, bất tịnh… xoay vần bởi nghiệp của chúng sanh, nhưng vì mặc mũ giáp thấy các pháp là như huyễn nên Bồ-tát không bị nhiễm ô bởi khổ đau, bởi nghiệp của chúng sanh. Thí như người mặc giáp đi vào chốn binh đao khói lửa để cứu người nhưng không bị tổn hại bởi gươm giáo; thí như người mặc bộ áo chống vi trùng thì vào nơi dịch bệnh mà không bị nhiễm bệnh. Không bị nhiễm ô bởi vì thế giới, chúng sanh, nghiệp của chúng sanh đều như huyễn. Nghiệp là hành động, tức sự chuyển động của thân, khẩu, tâm ý; Bồ-tát thì không bị nhiễm ô bởi nghiệp, vì Bồ-tát thấy các pháp đều không động, vì như huyễn:

Các uẩn không có thật
Tự tánh bổn lai Không
Tánh Không nên vô tướng
Tất cả không có khởi.
Các uẩn xa lìa tướng
Lìa tướng thì vô sanh
Không sanh thì không diệt
Tướng các uẩn như vậy.
Cõi dục, cõi vô sắc
Tất cả do duyên khởi
Tự tánh bổn lai Không
Vô tướng cũng vô thể…
Vì thấy pháp hư vọng
Gọi đó là chánh quán
Ánh sáng chẳng nghĩ bàn
Vô biênvô lượng.

Quán thấy các pháp như huyễn, đó là “phương tiện thiện xảo” của đại tríđại bi của Bồ-tát ở trong sanh tử. Tất cả các pháp, tất cả thế giới, chúng sanh đều như huyễn, đây là pháp giới bất động hay “pháp giới phương tiện thiện xảo” của Bồ-tát. Chính trong sanh tử nghiệp lực chuyển động của chúng sanh, Bồ-tát giải thoát vì thấy pháp giới bất động:

Thấy tất cả các pháp
nghĩa lý các pháp
Như hư không trong sạch
Như ảnh, bóng trong gương
Bình đẳng không dơ nhiễm
Pháp giới không có sanh
Không có mạng, có già
Không chết, không nổi chìm
Cũng không có ra khỏi.
Pháp giới chẳng nghĩ bàn
Không đến cũng không đi
Pháp giới chẳng phải uẩn
Chẳng phải giới và xứ
Cũng chẳng rời giới, xứ
Thật không có chỗ động
Pháp giới thường như như.

Bồ-tát đối với sanh tử, với chúng sanh không mệt mỏi, không oán trách, vì đại bi của Bồ-tát là đại bi của tánh Không, của ánh sáng các pháp không phân biệt. Với tánh Không, với ánh sáng các pháp không phân biệt, đại bi của Bồ-tát thấy chúng sanh và nghiệp của chúng sanh như huyễn, do đó cứu độ mà thấy người được cứu độ, hành động cứu độ và người đang cứu độnhư huyễn. Thế nên càng làm việc cứu độ thì càng thâm nhập Pháp thân tánh Không, càng giải thoát.

“Vì mỗi chúng sanh, mỗi mỗi tâm hành, mỗi mỗi lưu chuyển cùng tận bờ sanh tử, nên các Đại Bồ-tát cầm thuốc trí huệ, chẳng lìa bỏ mũ giáp, có thể kiên cố mặc đại mũ giáp, mặc vô lượng mũ giáp…, mặc mũ giáp biết không có chúng sanh, mặc mũ giáp biết tự tánh (như huyễn) của chúng sanh, mặc mũ giáp biết tất cả các pháp vô sở đắc, mặc mũ giáp biết tự tánh các pháp vô sở đắc”.

Trong cùng một thế giới, chúng sanh thì thấy đầy dẫy khổ đau, sanh già bệnh chết, nổi chìm biến động theo nghiệp và tiếp tục tạo nghiệp nổi chìm biến động, còn Bồ-tát thì mặc mũ giáp quán thấy Không, quán thấy ánh sáng vô phân biệt, quán thấy huyễn nên Bồ-tát thấy đó là pháp giới giải thoát “không có tướng khác, bình đẳng, thuần một”, “pháp giới bất động như như”.

Người thì bị các tướng ràng buộc, đó là sanh tử. Người không bị các tướng và danh tự ràng buộc, đây là tự do. Tự do ấy không chỉ ở nơi pháp giới, mà tự do ở nơi mỗi một pháp, tràn ngập nơi mỗi một pháp, vì tướng của mỗi một pháp là sự biểu lộ của tự do:

Ông xem tất cả pháp
Chảy vào trong pháp giới
Các pháp đồng pháp giới
Nghĩa lý đều bình đẳng.
Lại xem nơi pháp giới
Chảy vào trong các pháp
Pháp giới đồng các pháp
Nghĩa lý cũng bình đẳng.

Mặc giáp tánh Không như vậy bởi vì đại bi:

Chúng sanh khổ sanh tử
Bức ngặt chẳng an ổn
Tôi thường làm cứu hộ
Mặc giáp trụ vô biên.
Vô biên khổ sanh tử
Tôi khiến giải thoát được
Lưới ái kiến trói buộc
Tất cả đều sẽ đứt.
Với lưới phiền não này
Làm đứt được tất cả
Sức tinh tấn kiên cố
Dũng mãnh mà mặc giáp.

Nguyễn Thế Đăng
Văn Hóa Phật Giáo 01-06-2017
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4039)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5192)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4183)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3246)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6242)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5211)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4549)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6110)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 5999)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3785)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 5918)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4559)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4706)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3316)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6199)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 4831)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3478)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3408)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5559)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4147)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 5925)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5134)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3600)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3678)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3650)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3470)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5261)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 3889)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4233)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5753)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3079)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3016)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3763)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4778)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3501)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 2981)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4501)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4631)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3379)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 3930)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4665)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3474)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3537)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5077)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4046)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3213)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 2938)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 2975)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
(Xem: 3046)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 3039)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3406)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 3942)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
(Xem: 5037)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 2606)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6054)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 2981)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3029)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3223)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3170)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3229)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant