Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tương Ưng Và An Trụ

06 Tháng Sáu 201704:50(Xem: 6488)
Tương Ưng Và An Trụ

TƯƠNG ƯNG VÀ AN TRỤ 

Nguyễn Thế Đăng


Tương Ưng Và An Trụ


Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để tương ưng và an trụ nơi chân lý ấy để “có thể thấy biết như chân lý:

Đây là người quán sát
Nơi các pháp ngôn giáo
Mà hay bình đẳng nói
Thường trụ tánh bình đẳng.
Đây là người quán sát
Nơi các pháp ngôn giáo
Như lý hay thấy biết
Bèn được khéo tương ưng…
Thuần một không trái cãi
Dứt tranh luận, tương ưng
Thành tựu tam muội ấy
Như lý mà an trụ.
Trong nghĩa lý các pháp
Như lý chuyên tu tập
Thấy được các cửa pháp
Đây là người thấy pháp
.

Tu hànhtương ưng và an trụ trong pháp tánh. Tương ưng là thấy biết đúng như lý, như chân lý. Để có thể “thấy Pháp” thì phải quán sát như lý, đúng theo chân lý tánh Không, ánh sáng, và như huyễn. Đây là ba phương diện, ba chiều kích của thực tại, cả mặt biểu lộ và không biểu lộ.

Quán tánh Không để tương ưng và an trụ trong Pháp thân tánh Không. Ở đây chỉ trích ra một ít đoạn về quán tánh Không.

“Bạch Thế Tôn! Con cũng chẳng thấy nhẫn đến có chút pháp nào ở trong, ở ngoài, ở trung gian mà có thể hướng đến được, thân cận được. Đã không có chút pháp nào để hướng đến được, thân cận được, thì ở trong ấy con an lập cái gì?

Bạch Thế Tôn! Con cũng chẳng thấy quá khứ hiện tại vị lai để làm chỗ an lập. Nếu chỗ an lập đã vô sở hữu, con có thể an lập ở chỗ nào?”.

Không thấy có chút pháp nào tức là thấy Vô tướng. Không thấy quá khứ hiện tại vị lai làm chỗ an lập tức là thấy Vô niệm. Đây là cái Tại đây, không có tướng, không có không gian nên mở khắp tất cả nơi chốn; là cái Bây giờ, không có tưởng niệm nên không có thời gian, trùm suốt ba thời.

“Các Đại Bồ-tát nơi nghĩa lý pháp mà an trụ. An trụ như vậy là an trụ nơi vô trụ, không có chỗ an trụ mà an trụ, thấy tất cả pháp không có chỗ phân biệt. An trụ nơi hạnh vô phân biệt như vậy, dùng hạnh như vậy thấy tất cả pháp không có chỗ động thì an trụ nơi lý Chân như, tương ưng với Chân như bất động, tương ưng với lý Chân như vốn không nắm giữ”.

Tâm không phân biệt thì thấy tất cả pháp không động, đó là an trụ Chân như hay tánh Không bất động.

Thấy các pháp vô sanh, đó là thấy tánh Không vô sanh. Và vô sanh cũng là vô niệm, tất cả pháp vốn không chỗ động: “Dùng ấn vô sanh ấn tất cả các pháp, nên các Đại Bồ-tát phải nhập vào ấn môn sanh chánh trí thấy vô sanh. Dùng ấn vô niệm ấn tất cả các pháp, nên các Đại Bồ-tát phải nhập vào ấn môn vô phân biệt chân thật bình đẳng”.

Tu hành như vậy trong từng niệm niệm, thì trong từng niệm niệm hành giả tương ưng và an trụ tánh Không.

Về ánh sáng các pháp, kinh nói như sau: “Này Vô Biên Huệ! Các Đại Bồ-tát ở nơi môn tất cả pháp vô chướng ngại, môn chẳng hòa hiệp, môn vượt khỏi mọi đoạn kiến thường kiến, môn bờ mé vô biên, vì xa lìa vậy, vì tịch diệt vậy, vì dừng dứt vậy, vì trong mát vậy. Các Đại Bồ-tát ở nơi ấn môn tất cả pháp ấy tùy học tùy nhập. Vì khéo tu hành các pháp môn ấy mà được tam muội hải ấn, ấn tất cả pháp. Các Đại Bồ-tát khéo tu hành, an trụ nơi tam muội hải ấn ấn tất cả pháp, quan sát tất cả pháp mà có thể phát sanh vô lượng vô biên ánh sáng đại pháp”.

Tam muội hải ấn ấn lên tất cả pháp khiến tất cả pháp tịch diệt, và khi tất cả pháp tịch diệt thì ánh sáng tất cả pháp hiển lộ. Nói cách khác, tam muội hải ấn, cũng tức là tâm, vừa là tánh Không tịch diệt, vừa là ánh sáng các pháp, mà người xưa gọi là Không-Minh vậy.

Bồ-tát vì đại bi mà sống trong sanh tử, trong thế gian khổ, vô thường, bất tịnh… xoay vần bởi nghiệp của chúng sanh, nhưng vì mặc mũ giáp thấy các pháp là như huyễn nên Bồ-tát không bị nhiễm ô bởi khổ đau, bởi nghiệp của chúng sanh. Thí như người mặc giáp đi vào chốn binh đao khói lửa để cứu người nhưng không bị tổn hại bởi gươm giáo; thí như người mặc bộ áo chống vi trùng thì vào nơi dịch bệnh mà không bị nhiễm bệnh. Không bị nhiễm ô bởi vì thế giới, chúng sanh, nghiệp của chúng sanh đều như huyễn. Nghiệp là hành động, tức sự chuyển động của thân, khẩu, tâm ý; Bồ-tát thì không bị nhiễm ô bởi nghiệp, vì Bồ-tát thấy các pháp đều không động, vì như huyễn:

Các uẩn không có thật
Tự tánh bổn lai Không
Tánh Không nên vô tướng
Tất cả không có khởi.
Các uẩn xa lìa tướng
Lìa tướng thì vô sanh
Không sanh thì không diệt
Tướng các uẩn như vậy.
Cõi dục, cõi vô sắc
Tất cả do duyên khởi
Tự tánh bổn lai Không
Vô tướng cũng vô thể…
Vì thấy pháp hư vọng
Gọi đó là chánh quán
Ánh sáng chẳng nghĩ bàn
Vô biênvô lượng.

Quán thấy các pháp như huyễn, đó là “phương tiện thiện xảo” của đại tríđại bi của Bồ-tát ở trong sanh tử. Tất cả các pháp, tất cả thế giới, chúng sanh đều như huyễn, đây là pháp giới bất động hay “pháp giới phương tiện thiện xảo” của Bồ-tát. Chính trong sanh tử nghiệp lực chuyển động của chúng sanh, Bồ-tát giải thoát vì thấy pháp giới bất động:

Thấy tất cả các pháp
nghĩa lý các pháp
Như hư không trong sạch
Như ảnh, bóng trong gương
Bình đẳng không dơ nhiễm
Pháp giới không có sanh
Không có mạng, có già
Không chết, không nổi chìm
Cũng không có ra khỏi.
Pháp giới chẳng nghĩ bàn
Không đến cũng không đi
Pháp giới chẳng phải uẩn
Chẳng phải giới và xứ
Cũng chẳng rời giới, xứ
Thật không có chỗ động
Pháp giới thường như như.

Bồ-tát đối với sanh tử, với chúng sanh không mệt mỏi, không oán trách, vì đại bi của Bồ-tát là đại bi của tánh Không, của ánh sáng các pháp không phân biệt. Với tánh Không, với ánh sáng các pháp không phân biệt, đại bi của Bồ-tát thấy chúng sanh và nghiệp của chúng sanh như huyễn, do đó cứu độ mà thấy người được cứu độ, hành động cứu độ và người đang cứu độnhư huyễn. Thế nên càng làm việc cứu độ thì càng thâm nhập Pháp thân tánh Không, càng giải thoát.

“Vì mỗi chúng sanh, mỗi mỗi tâm hành, mỗi mỗi lưu chuyển cùng tận bờ sanh tử, nên các Đại Bồ-tát cầm thuốc trí huệ, chẳng lìa bỏ mũ giáp, có thể kiên cố mặc đại mũ giáp, mặc vô lượng mũ giáp…, mặc mũ giáp biết không có chúng sanh, mặc mũ giáp biết tự tánh (như huyễn) của chúng sanh, mặc mũ giáp biết tất cả các pháp vô sở đắc, mặc mũ giáp biết tự tánh các pháp vô sở đắc”.

Trong cùng một thế giới, chúng sanh thì thấy đầy dẫy khổ đau, sanh già bệnh chết, nổi chìm biến động theo nghiệp và tiếp tục tạo nghiệp nổi chìm biến động, còn Bồ-tát thì mặc mũ giáp quán thấy Không, quán thấy ánh sáng vô phân biệt, quán thấy huyễn nên Bồ-tát thấy đó là pháp giới giải thoát “không có tướng khác, bình đẳng, thuần một”, “pháp giới bất động như như”.

Người thì bị các tướng ràng buộc, đó là sanh tử. Người không bị các tướng và danh tự ràng buộc, đây là tự do. Tự do ấy không chỉ ở nơi pháp giới, mà tự do ở nơi mỗi một pháp, tràn ngập nơi mỗi một pháp, vì tướng của mỗi một pháp là sự biểu lộ của tự do:

Ông xem tất cả pháp
Chảy vào trong pháp giới
Các pháp đồng pháp giới
Nghĩa lý đều bình đẳng.
Lại xem nơi pháp giới
Chảy vào trong các pháp
Pháp giới đồng các pháp
Nghĩa lý cũng bình đẳng.

Mặc giáp tánh Không như vậy bởi vì đại bi:

Chúng sanh khổ sanh tử
Bức ngặt chẳng an ổn
Tôi thường làm cứu hộ
Mặc giáp trụ vô biên.
Vô biên khổ sanh tử
Tôi khiến giải thoát được
Lưới ái kiến trói buộc
Tất cả đều sẽ đứt.
Với lưới phiền não này
Làm đứt được tất cả
Sức tinh tấn kiên cố
Dũng mãnh mà mặc giáp.

Nguyễn Thế Đăng
Văn Hóa Phật Giáo 01-06-2017
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3501)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 7358)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4527)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4582)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7361)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2975)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12230)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 4006)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3815)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4234)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3703)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5077)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6700)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4016)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4139)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5351)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3794)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4546)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3563)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3940)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4401)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5398)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3850)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3946)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3881)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4833)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4535)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4274)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3848)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4650)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4219)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6122)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4617)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4958)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4200)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4840)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5675)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3662)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4058)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4599)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5295)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3153)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4770)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4566)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4306)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4754)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4505)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4611)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7237)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5221)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5012)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4607)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5629)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5284)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4168)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6026)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4724)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4888)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5497)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5632)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant