Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Loại Trừ Những Chướng Ngại Cho Một Sự Chết Thuận Lợi

29 Tháng Tám 201809:07(Xem: 3989)
Loại Trừ Những Chướng Ngại Cho Một Sự Chết Thuận Lợi

LOẠI TRỪ NHỮNG CHƯỚNG NGẠI CHO MỘT SỰ CHẾT THUẬN LỢI 

 

Nguyên bản: Removing obstacles to a favorable death

Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma 

Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D.

Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

Dalailama

 

-***-

 

Mặc dù ta kìm lại kiên cố, nhưng ta không thể ở lại

Lợi lạc gì ở đấy

Trong sự kinh khủngsợ hãi

Của những gì không thể thay đổi được?

-ĐỨC PHẬT-

 

-***-

 

Thi Kệ Số Bốn

Xin cho chúng tôi được giải tỏa khỏi sự tràn ngập của đau khổ

Qua nhiều nguyên nhân của sự chết

Khi trong tập họp này của những nhận thức sai lầm về chủ thể và đối tượng

Thân thể của ảo tưởng được cấu thành bởi bốn yếu tố bất tịnh

tâm thức sắp chia ly

 

Hãy bắt đầu sớm sủa nhất khi có thể trong đời sống của ta để đạt được sự quen thuộc với những thể trạng đạo đức của tâm thức. Khi năng lực này được thiết lập, thì nó sẽ có thể hướng dẫn tâm thức về phía đạo đức ngay cả  khi lâm chung. Tuy nhiên, trong khi lâm chung, ta có thể bị áp đảo với cơn đau làm thành bất lực từ một chứng bệnh khủng khiếp, ta có thể đau khổ vì một cái chết bất đắc kỳ tử trong một tai nạn hay một sự tấn công, hay ta không thể chấm dứt mạng sống qua sự cạn kiệt phước đức  - việc sử dụng hết phước nghiệp vốn giữ cho sự sống tiếp tục. Những trường hợp này có thể giải thích cho sự thực tập lâu dài của ta với những thể trạng đạo đức của tâm thức đã không hoạt động (mặc dù điều này không cần thiết như vậy). Khổ đau tự nó có thể làm phát sinh rất nhiều sự sợ hãi mà việc quán chiếu đạo đức trở thành vô hiệu, ngoại trừ đối với những ai đã được tu tập đến một trình độ cao cấp và có những năng lực lớn về thiền nhất tâm. Do vậy, thật quan trọng để phát những nguyện ước ngay từ bây giờ để được thoát khỏi những nổi đau đớnsợ hãi tràn ngập như vậy, và để chết trong một cung cách thư thái, điều này cho phép thái độ đạo đức mà ta đã từng trau dồi được mạnh mẽ; ta sẽ có thể chết với một sự thấu hiểu rộng lớn hơn.

 

Vì sự chết liên hệ đến việc chia lìa thân thểtâm thức, thật quan trọng để nhận ra bản chất của “cái tôi” vốn được thiết lập liên hệ đến tập họp của các uẩn vật lýtâm lý, cũng như bản chất của chính các tập họp uẩn này. Loại thân thểchúng ta sở hữu là một thực thể bất tịnh, được sản sinh từ bốn yếu tố của đất, nước, gió, lửa; chủ thể chịu đau đớn từ ngay cả những nguyên nhân sơ sài, và giống như một ảo tưởng cả trong cảm giác của việc hiện hữu ở đây một thời khắc và qua đi trong thời khắc tiếp theo, và trong cảm nhận việc xuất hiện để tồn tại một cách cố hữu nhưng thật sự là một sự tồn tại cố hữu vốn trống rỗng. Bằng việc hiện hữu là sạch nếu được rửa, và  hiện hữu hạnh phúc, thường còn, và dưới sự điều khiển của ta, thân thể an trú, có thể nói như vậy, trong một tập họp của những khái niệm sai lầm về bản chất của tâm ý và những đối tượng của nó.

 

Tập  họp của những khái niệm sai lầm trong thi kệ số bốn liên hệ đến vòng luân hồi. Nó được xây dựng bằng những hành vi (nghiệp) vốn dưới ảnh hưởng của các cảm xúc phiền não. Những cảm xúc phiền não sinh khởi từ si mê - khái niệm thiển cận của sự tồn tại cố hữu, ngộ nhận bản chất của tự thân và người khác, cũng như mọi thứ - vọng tưởng những thứ này tồn tại bằng cung cách hiện hữu của chính họ. Do thế, si mênguyên nhân căn bản của vòng đau khổ và vòng luân hồi.

 

Việc hiểu sai về sự tồn tại cố hữu thúc đẩy nghiệp – cả những hành động và các khuynh hướng được tích tập từ những hành động ấy – động lực của vòng luân hồi. Các hiện tượng sinh khởi qua tiến trình này của si mê xuất hiện để tồn tại cố hữu, nhưng chúng không như vậy, và vì vậy là tập họp của những sai lầm. Tập họp của vòng luân hồi được tạo nên bằng nhận thức sai lầm rằng chủ thể và đối tượng, kẻ đi bắt và người bị bắt, các hiện tượng nội tại và ngoại tại, tồn tại trong và tự chính chúng, một cách cố hữu, dưới năng lực của chính chúng.

 

Với thi kệ này, ta phát nguyện ước rằng khi tâm thức sắp chia lìa khỏi thân thể ảo tưởng được làm nên bởi bốn yếu tố, thì ta sẽ không bị phiền não với nổi đau khổ tràn ngập, vì điều này sẽ gây trở ngại cho sự thực tập thành công. Những điều kiện khác ngăn trở là tham luyếnthù oán, vốn là những chướng ngại khổng lồ cho một thái độ đạo đức.

 

TOÁT YẾU THỰC TẬP

 

1-   Hãy thực tập bây giờ vì thế vào lúc lâm chung năng lực sự quen thuộc của ta với đạo đức sẽ tác động thái độ của ta.

2-   Hãy xem thân thể thật sự là một tập họp của những nhận thức sai lầm, vì mặc dù nó hiện hữu là sạch sẽ khi ta tắm rửa nó, cũng như một nguồn gốc của hạnh phúc, thường còn, và dưới sự kiểm soát của ta, nó không phải vậy. Nó được sản sinh từ bốn yếu tố (đất, nước, gió, lửa), là đối tượng của đau khổ, và thay đổi từng thời khắc tương hợp với bản chất của nó.

3-   Mọi ngườimọi vật hiện hữu để tồn tại dưới năng lực, và sự si mê của chính chúng chấp nhận hiện tướng sai lầm này, làm cho sinh khởi những cảm xúc phiền não về tham luyến, thù oán, và bối rối thêm. Những cảm xúc phiền não này lại làm ô nhiễm các hành vi của thân thể, lời nói và tâm ý, làm tiến trình của vòng luân hồi kéo dài mãi. Hãy thấu hiểu rằng ta đang sống trong một tập họp của những nhận thức sai lầm.

 

Thi Kệ Số Năm

Xin cho chúng tôi được thoát khỏi những hiện tướng sai lầm phi đạo đức

Khi, bị lừa dối vào lúc nhu cầu kéo dài thân thể này quá thiết tha

Những kẻ thù kinh khủng – thần chết – biểu hiện

chúng ta tự giết mình 

với những vũ khí của ba độc tố: tham luyến, thù oán, và bối rối.

 

Thời điểm lâm chung là rất quan trọng, vì nó đánh dấu sự chấm dứt một kiếp sống và sự bất đầu một kiếp sống mới. Nếu vào lúc quyết định này thân thể tiếp tục duy trì với ta, ta có thể đặt sự tin tưởng vào nó, nhưng vào lúc quan trọng nó lừa dối chúng ta. Thân thể của chúng ta, được kéo dài rất thân thiết bằng thực phẩm, áo quần, tiền bạc, nhà ở, thuốc men, và ngay cà những hành vi xấu ác, từ bỏ chúng ta.

 

Chỉ đề cập sự chết làm chúng ta hơi không thoải mái. Khi tiến trình sự chết của chính ta biểu hiện và những khía cạnh hải sợ của vô thường, được gọi là “thần chết” trong thi ca, tự biểu hiện, một số người phản ứng với một sự dính mắc mạnh mẽ với tài sản, thân nhân, bè bạn, và thân thể, trong khi những người khác tỏ ra thù oán kẻ thù của họ và cho sự đau khổ dường như không thể chịu đựng nổi. Thậm chí nếu tham luyếnthù oán không hiện diện, ta lại phát sinh một niềm tin mạnh mẽ trong chính sự tồn tại cố hữu của chính ta và tất cả những hiện tướng của nó – hình thức trung tâm của si mê. Ba độc tố này – tham luyến, thù oán, và si mê – là những chướng ngại nội tại mạnh mẽ nhất đối với sự thực tập đạo đức của ta, và trong một cảm nhận sâu hơn, đây là những vũ khí mà với nó ta tự giết mình vào lúc chết. Để giữ cho những thái độ độc hại này không sinh khởi trong khi lâm chung, hãy thiết lập những nguyện ước rằng tham luyến, và thù oán mạnh mẽ không sinh khởi và những hiện tướng sai lầm không xuất hiện.

 

Vào lúc lâm chung, thật quan trọng để thoát khỏi thuốc men vốn làm cho ta không thể suy nghĩ một cách thích đáng. Đối với một hành giả tôn giáo các dược phẩm làm tối tăm tâm thức là phải tránh, vì tâm ý ta phải trong sáng tối đa như có thể. Việc tiêm một mũi thuốc cho phép “một sự chết bình yên” có thể cướp mất cơ hội cho tâm thức biểu hiện trong một cung cách đạo đức bằng việc quán chiếu về vô thường, phát sinh niềm tin, cảm nhận từ bi, hay quán chiếu về vô ngã. Tuy nhiên, nếu một liều thuốc giảm đau không làm tâm thức mê mờ được phát triển, thì thậm chí nó có thể hữu ích, vì ta có thể tiếp tục biểu hiện chức năng tinh thần, thoát khỏi sự xao lãngđau đớn.

 

TOÁT YẾU THỰC TẬP

 

1-   Hãy thấu hiểu rằng thân thể này, mà ta duy trì với bất cứ giá nào, thì sẽ ruồng bỏ ta một ngày nào đó.

2-   Hãy tránh tham luyến với hoàn cảnh chúng ta đang lìa xa.

3-   Hãy tránh thù oánchúng ta phải bỏ lại.

4-   Hãy cách xa khỏi tham luyến, thù oán, và si mê tối đa như có thể, vì thế ta có thể duy trì sự thực tập đạo đức trong khi lâm chung.

5-   Hãy nhận ra rằng bằng việc uống thuốc hay tiêm thuốc để có một sự chết an lành thì ta có thể đang tự đánh mất một cơ hội quyết định cho việc biểu hiện đạo đức.

 

Ẩn Tâm Lộ, Tuesday, August 7, 2018

 

 

 

HƯỚNG DẪN VỀ SỰ CHẾT ĐỂ SỐNG TỐT ĐẸP HƠN

 

Nguyên bản: Advice on Dying and Living a Better Life

Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma 

Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D.

Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

 

MỤC LỤC

01-Tỉnh thức về sự chết

02- Giải thoát khỏi sự sợ chết

03- Chuẩn bị để cho sự chết

04- Loại trừ những chướng ngại đến cái chết có lợi

05-Thành tựu những điều kiện thuận lợi cho thời điểm lâm chung

06- Hành thiền trong khi đang chết

07- Cấu trúc bên trong

08- Linh quang của sự chết

09- Phản ứng với tình trạng trung ấm thân

10- Đón nhận một sự tái sanh tích cực

11- Thi kệ quán chiếu hàng ngày

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1618)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1740)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1304)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 995)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1304)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 1790)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1355)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1458)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1286)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2583)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1279)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1304)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1585)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1565)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1529)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1364)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2510)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1511)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1499)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1282)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1331)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1497)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1452)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1334)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1302)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1415)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2067)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1442)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1409)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1503)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1747)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1427)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1290)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1566)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1307)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1598)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2208)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1374)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1849)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1576)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1665)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1517)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1856)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1566)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1353)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1629)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1485)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1449)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1242)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1166)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1208)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1433)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1544)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1516)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 957)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1404)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1416)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1553)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1798)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1404)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant