Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Luôn Nhớ Tất Cả Pháp Hữu Vi Đều Vô Thường

31 Tháng Tám 201806:44(Xem: 5695)
Luôn Nhớ Tất Cả Pháp Hữu Vi Đều Vô Thường
Luôn Nhớ Tất Cả Pháp Hữu Vi Đều Vô Thường

Thích Thông Phương


Luôn Nhớ Tất Cả Pháp Hữu Vi Đều Vô Thường

Phật dạy tất cả pháp hữu vi đều là vô thường sanh diệt không bền vững, như vậy thì ở thế gian cái gì có tạo tác có biến đổi đều là vô  bền chắc. Chúng ta cần nắm vững chân lý này để khi tu có nhiều điều cởi mở lớn lao đến với mình.

Như tâm tạo tội của chúng ta có vô thường không? Phật dạy tất cả pháp hữu vi đều vô thường thì cái tâm tạo tội của mình đó có ra ngoài vô thường không? Cái tâm tạo tội này cũng là pháp hữu vi thì cũng vô thường không cố định, cho nên chúng ta có đủ niềm tin để tu hành chuyển hóa nó.

 

Đó là lẽ thật, cũng là một đặc ân lớn cho những người tội lỗi mê lầm như chúng ta. Tức chúng takhông phải hết hy vọng, vì cái tâm tội lỗi cũng là vô thường, thì tội lỗi cũng là vô thường rồi nhữngnghiệp chướng cũng là vô thường.

Có câu chuyện về một anh nông dân hay nóng nảy cọc cằn. Anh đến thưa với Thiền sư Bàn Khuê là anh được sanh ra với một tính khí cộc cằn nóng nảy, không thể điều khiển kiềm chế được. Anh xin Thiền sư có cách gì giúp anh trị nó được không?

Thiền sư Bàn Khuê bảo: “Anh được sinh ra với một việc thú vị như vậy, thì ngay bây giờ anh cónóng nảy hay không? Nếu có thì anh hãy đem ra đây cho tôi xem thì tôi sẽ chữa cho.” Anh thưa: “Bạch thầy ngay lúc này thì không có, nhưng khi bất chợt gặp chuyện thì nó nhảy ra mới có.” Tức là ngay bây giờ nó không có thì làm sao đem ra được, nhưng khi đụng chuyện thì nó mới nhảy ra.Thiền sư Bàn Khuê nói: “Như vậy thì sự nóng nảy của anh không phải là cái bẩm sinh, nó không phải là cái sẵn có”. Bởi nếu nó là cái bẩm sinh tức là tánh của anh thì nó sẵn trong anh, mà sẵn có thì lúc nào cũng có thể đem ra được. Còn cái này không phải là cái sẵn có, chỉ khi nào đụng chuyện mới có, tức là gặp duyên mới có thì không phải là cái sẵn có. Vậy tức là nó không thật. Nókhông thật thì anh có cách chữa rồi.

Tức là nó không có thực thể và rõ ràng không phải là tánh của anh, mà nó theo duyên gặp duyên mới có, khi không có duyên thì không. Như vậy, không thể cho cái nóng nảy đó là cái sẵn có nơi anh mà cái nóng nảy cũng có thể chuyển hóa, vậy là chúng ta biết cách để chuyển đổi nó và cóniềm tin để tu tiến.

Có nhiều vị lầm nói tánh tôi nóng, quý vị đừng có đụng tới tôi, đó là cái chấp sai lầm. Nhớ kỹ, cái nóng không phải là tánh vì nếu là tánh thì có thể đem ra bất cứ lúc nào. Thí dụ như trong nhà quý vị có vàng sẵn thì bảo đem ra lúc nào cũng được, chỉ khi đụng chuyện thì nó mới sanh nên nó đâu phải là tánh sẵn có. Nó là pháp nhân duyên sanh nên nó đâu phải là tánh sẵn có. Nó là pháp nhân duyên sanh, là thuộc vô thường. Là vô thường thì nó có thể chuyển đổi. Như vậy, bản chất của cáinóng nảy là vô thường, là hoại diệt, không nên chấp vào nó thì đó là con đường tu tiến của chúng ta.

Như chuyện ông Tô Đông Pha một nhà nho mà học thiền, cũng hiểu được đạo lý kha khá. Ông thường qua lại với Thiền sư Phật Ấn để bàn luận đạo lý.

Hôm đó không biết ông ngồi thiền có cảm hứng trong lòng thế nào mà vui vẻ làm bài kệ:

Khể thủ thiên trung thiên 
Hào quang chiếu đại thiên 
Bát phong xuy bất động 
Đoan tọa tử kim liên.
Dịch:
Cúi đầu lễ Thế Tôn 
Hào quang chiếu ba ngàn 
Tám gió thổi chẳng động 
Ngồi thẳng trên đài sen.

Xong, ông mới sai người nhà qua sông đem trình với Ngài Phật Ấn. Nhà ông ở cách chùa Kim Sơnnơi Ngài Phật Ấn ở một con sông. Ngài Phật Ấn xem xong liền phê vào bên cạnh bài thơ đó hai chữ “Phát địt”, nói theo tiếng miền Bắc là “Đánh rắm”. Rồi bảo đem về đưa cho ông.

Khi được hồi âm, ông hớn hở mở ra xem, nhìn thấy hai chữ “phát địt” thì nổi giận, nghĩ: “Đáng lẽ phải khen ngợi chớ tại sao mà chê quá vậy!” Ông mới vội vã sai người nhà sửa soạn thuyền để qua sông gặp Ngài Phật Ấn hỏi cho ra lẽ, tại sao khinh thường ông như vậy.

Ngài Phật Ấn đoán biết nên đứng ở trên bờ sông chờ. Thuyền vừa cập bến, ông lên bờ vẻ mặthầm hầm, hỏi Ngài Phật Ấn: “Tôi với thầy lâu nay là bạn thân, nay khi tu tập tôi có cảm hứng làm thơ trình thầy sao thầy chê tôi quá vậy?” Ngài Phật Ấn hỏi: “Chê cái gì?” Ông mới đưa tờ giấy ra, nói: “Thầy phê bài thơ tôi như vầy”.

Ngài Phật Ấn cười ha hả nói: “À! Thì ra là Tô Đông Pha tám gió thổi không động nhưng chỉ một ‘phát địt’ liền thổi từ bên kia sông qua tới bên đây sông!”

Nghe xong, ông tỉnh ngộhổ thẹn mới xin tạ lỗi. Ngay đó, ông hết giận, sám hối với Ngài Phật Ấn.

Qua câu chuyện, quý vị nhận định thế nào? Mới giận đó nhưng khi nghe Ngài Phật Ấn cảnh tỉnhliềm xìu xuống hết giận. Để thấy rằng cái giận nó không có thật thể, nếu nó là cái thật thì nó còn hoài, thì chắc là giận suốt đời, theo mình suốt đời.

Hiểu rồi thì chúng ta không nên cố chấp vào nó, và chính đó là ánh sáng giáo pháp soi sáng chochúng sanh để chúng ta thấy được những lẽ thật. Đó là cái giận thôi, còn những buồn phiền v.v…,chúng ta cũng quán kỹ như vậy thì sẽ bớt chấp và chúng ta sẽ có con đường để chuyển hóa tiến lên.

Cho nên, ai mà nói rằng tánh tôi xấu không có hy vọng gì chuyển đổi được là tự lầm, biện hộ cho cái xấu của mình. Trái lại, đều có thể chuyển đổi, nếu có quyết tâmTừ tâm mê lầm chúng ta tạo ra cái xấu thì bây giờ cũng từ tâm tỉnh giác chúng ta chuyển hóa để vươn lên.

Phật dạy tất cả pháp hữu vi đều là pháp vô thường sanh diệt, thì bản chất của nó là hoại diệt. Cho nên, bản chất những thói xấu, những tội lỗi của chúng ta cũng là hoại diệt, có thể tu để chuyển hóa. Đó là con đường vượt ra khỏi lưới.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1536)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1669)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1641)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1041)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1522)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1503)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1681)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1948)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1539)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1365)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1374)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1565)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1154)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1274)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1290)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1700)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1651)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3015)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1828)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1368)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1222)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1282)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1416)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1327)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1926)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1696)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1898)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1828)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2397)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1787)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2136)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2242)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2306)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1860)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1983)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2037)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1961)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2599)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1953)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1896)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1956)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1901)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2173)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2321)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1991)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2105)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1889)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1916)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2425)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2331)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 4012)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2501)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3207)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2487)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2054)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1804)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3318)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2352)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3038)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant