Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhập A-tì-đạt-ma Luận

30 Tháng Mười Một 201807:52(Xem: 5899)
Nhập A-tì-đạt-ma Luận
TIỂU TẠNG A-TÌ-ĐẠT-MA BẮC TRUYỀN 
****
ARHAT 
SKANDHILA
(A-LA-HÁN TẮC-KIỀN-ĐA tạo)
NHẬP A-TÌ-ĐẠT-MA LUẬN
ABHIDHARMĀVATĀRA-
ŚĀSTRA
入阿毘達磨論 

 Phước Nguyên
 

 

《中華大藏經》_第48冊_第0952頁

TỰA QUY KỈNH

Kính lễ Nhất thiết trí,

Vầng Phật nhật vô cấu,

Lời sáng phá tâm ám 

Nơi nhân thiên, ác thú.

 

Ai dùng lý Đối pháp

Bạt trừ pháp tướng ngu,

Tôi đảnh lễ như thế,

Ngôn tạng Nhất thiết trí.

 

Liệt tuệ vọng thuyết ám,

Che lấp Mâu-ni ngôn,

Chiếu liễu do minh đăng,

Quy kỉnh đấng Nhiên đăng.

Những ai thông tuệ có thể thọ trì một cách toàn diện văn nghĩa Thánh giáo của đấng Mâu-ni, nhưng do câu hành với cơ sở của nghiệp nên có khi chưa đắc lại bị thoái chuyển

Những ai liệt tuệ nghe được danh nghĩa trong Đối pháp như rừng rậm liền sinh sợ hãi, nhưng đồng thời hằng hữu với tâm mong câu thông suốt

Vì muốn khiến cho những người ấy đối với vực thẳm trong biển pháp tướng của A-tì-đạt-ma có thêm phương tiện để thể nhập một cách dễ dàng và vui thích, do đó tạo ra Luận này.

Thiện Thệ Tông có tám cú nghĩa: (1) Sắc. (2) Thọ. (3) Tưởng. (4) Hành. (5) Thức. (6) Hư không. (7) Trạch diệt. (8) Phi trạch diệt. Đây là tổng quát tất cả nghĩa.

 

CHƯƠNG I: SẮC PHÁP

Sắc[1]có hai loại[2]: Đại chủng và sắc phái sinh.

I. Bốn nguyên tố

Đại chủng[3]được gọi là giới[4],có bốn giới:đất, nước, lửa, gió[5], vì chúng có thể duy trì yếu tính cá biệt[6], yếu tính phổ quát[7], hoặc các sắc phái sinh[8].

Theo thứ tự của bốn đại chủng này,lấy tính chấtcứng chắc, thấp khí, ấm nóng, di độnglàm tự tính; lấysự duy trì, cố kết, thành thục và phát triển làm chức năng[9]. 

Vì đại cũnglà chủng,nên gọi là đại chủng[10]. Do đâyhư không không thuộc trong đại chủng[11].

Vì có thể sinh ra tự quả[12]đólà nghĩacủachủng. 

Nói là “đại”[13]: vì thể của sắc phái sinh phổ quát[14]. 

Như vậy đại chủng chỉ có bốn thứ[15], nếu tăng thêm cũng không có công dụng, không có hiệu lực[16], như chân của giường nằm[17].

II. Sắc sở tạo

Sắc phái sinh có mười một thứ: (1) Mắt;(2) Tai;(3) Mũi;(4) Lưỡi;(5) Thân;(6) Sắc;(7) Âm thanh;(8) Hương;(9) Vị;(10) Một phần xúc;(11) Vô biểu sắc

Nói là sở tạo[18]: tức tồn tại trong các đại chủng,nghĩa là y trên các đại chủng mà hiện khởi[19].

1. Nhãn

Trong đây, mắt là sở ycủa nhãn thức, có chức năng là thấy sắc, tính chất minh tịnh của sắc làm tự thể. Tai, mũi, lưỡi, thân căn cứ theođây mà thuyết minh.

Sắc có hai loại, đó là sắc màu[20]và hình thể[21]. Như Thế Tôn nói: “Sắc màu xấu, hình thể xấu”. 

Sắc màucó mười hai: xanh, vàng, đỏ, trắng[22], mây, khói, bụi, mù[23]; bóng[24], màu nắng[25], màu sáng[26], bóng tối[27]

Hình thểcó tám: dài, ngắn, vuông, tròn, cao, thấp, phẳng[28], không phẳng[29].

Trong đây, mùlà hơi nước từ đất bốc lên.Sáng nắng tức ánh sáng mặt trời.Sáng ánh tức ánh trăng, ánh sao, ánh lửa,ánh thuốc,ánh sáng châu ngọc.Bóng có ở nơi nàoxuấthiện sắccản trở ánh sáng. Trái lại làbóng tối. Vuông là hình thể vuông vắn. Tròn là hình thể tròn trịa. Phẳng là hình thể bằng phẳng. Không phẳng là hình thể không bằng phẳng. Những từ còn lại thì dễ hiểu nên chỉ nói gọn[30]. 

Hai mươi thứ này đều là cảnh giới thông tri cá biệt[31]của nhãn thức và được dẫn khởi bởi ý thức.

2. Thanh

Âm thanh có hai loại:Có chấp thọ[32]và không chấp thọ[33].

Thanh có sai biệt vì có nguồn gốc từ các đại chủng: 1.âm thanh chấp thọ tự thể giả danh[34]: tức âm thanh phát ra từ vật chấtcảm giác. 2. Đồng với đặc điểm này gọi là không chấp thọ[35]. 

Thanh có nguồn gốc từ đại chủngchấp thọ giả danh như là tiếng phát ra từ bàn tay, từ tiếng nói. Thanh có nguồn gốc từ đại chủng không có chấp thọ giả danhnhưlà tiếng gió, tiếng rừng cây.

Ở đây, hữu tình danh, phi hữu tình danh phân biệt thành bốn: Thanh của biểu hiện bởi ngôn ngữ[36],gọi là hữu tình danh.Ngoài ra thanh khác gọi là phi hữu tình danh. Thanh của biến hóa bởi ngôn ngữ, gọi là hữu tình danh, ngoài ra các thanh khác gọi là phi hữu tình danh.

Trong đây,mỗi loại hoặc thích ý, hoặc không thích ý, phânthành támloại thanh[37]. 

Tám thứ như vậy đều là cảnh giới thông tri cá biệtcủanhĩthức và được dẫn khởi bởi ý thức.

3. Hương

Hương có ba loại[38]: (1) Mùi thơm. (2) Mùi thối. (3) Mùi quân bình[39]

Có thể nuôi lớn các căn và đại chủng, gọi là mùi thơm.

Gây tổn hại các căn và đại chủng,gọi là mùi thối.

Trái ngược với hai loại trêntrên gọi là hương bình đẳng

Ba loạinhư vậy đều là cảnh giới thông tri cá biệt của tỷthức và được dẫn khởi bởi ý thức.

4. Vị

Vị có sáuloại:phân thành ngọt, chua, mặn, cay, đắng, nhạt[40].

Sáu loạinhư vậy đều là cảnh giới thông tri cá biệt của thiệt thức và được dẫn khởi ý thức.

5. Một phần xúc

Một phần xúc có bảy loại: Tính trơn, tính nhám, tínhnặng, tínhnhẹ,lạnh, đói, khát[41].

Trơn tức là mềm dịu, là nghĩa của ý xúc. Nhám tứcthô cứng. Nặng là cái mà do đó vật thể được cân.Trái lại là nhẹ. Lạnh là sự muốn ấm. Đói là sự muốn ăn.Khát là sự muốn uống.Đó là ytheo nhân mà lập quả, do đó thuyết minh như vậy. Như nói: 

“Phước lạc thay là sự xuất hiện của Chư Phật…”[42]

Trong đại chủng tụ: 

Tính trơn vì nước,lửa tăng thịnh.

Tính nhám vì đất, gió tăng tịnh. 

Tính nặng vì đất, nước tăng thịnh. 

Tính nhẹ vì lửa, gió tăng thịnh. 

Tính lạnh vì nước, gió tăngthịnh. 

Đói vì gió tăng thịnh. 

Khát vì lửa tăng thịnh[43].

6. Vô biểu sắc

a. Danh nghĩa

Vô biểu sắc[44]: có thể tự biểu thịvề tâm,tâm sở chuyển biến sai biệt, đógọi là biểu. Như hữu biểu[45], nhưng không biểu thị,nên gọi là vô biểu

Đây là căn cứ nơi tính tương tự để lập ngôn thuyết đối lập. Như đối với Sát-đế-lợi nói không phải là Bà-la-môn v.v...

b. Yếu tính của vô biểu

Yếu tính của vô biểu: do biểu thịtâm,đại chủng sai biệtvào lúc ngủ, lúcthức, tâm tán loạntâm không tán loạn, và ở phần vị vô tâm,những gì làsắc thiện, bất thiện hoạt động tiếp nối, không thể tích tập, có thểthành lậpnhân Bí-sô v.v...đó là yếu tính của vô biểu[46].

Nếu không có yếu tínhnày,thì không thểthành lậpBí-sô v.v... Như Đức Thế Tôn nói: “Do hữu y phước nghiệp sự, phước tăng trưởng thường trực”. 

c. Ba loại luật nghi

Như vậy, vô biểu tổng quát có ba loại: Luật nghi[47], bất luật nghi[48], và không phải hai loại trên[49].

Có ba luật nghi: 1. Biệt giải thoát luật nghi[50]; 2.Tĩnh lự luật nghi[51]; 3.Vô lậuluật nghi[52].

d. Thể loại của luật nghi

Biệt giải thoát luật nghi có tám loại: (1) Luật nghi Bí-sô. (2) Luật nghi Bí-sô-ni. (3) Luật nghi Cần sách. (4) Luật nghiChánh học. (5) Luật nghi Cần sách nữ. (6) Luật nghi Cận sự nam. (7) Luật nghi Cận sự nữ. (8) Luật nghi Cận trụ[53]. Támloạinhư vậy chỉ thuộc Dục giới.

Tĩnh lự luật nghi:Tam-ma-địa thuộc sắc giới tùy chuyển với sắc. Luật nghi này chỉ thuộc sắcgiới.

Vô lậu Luật nghi: Tam-ma-địa vô lậu tùy chuyểnsắc. Luật nghi này không hệ thuộc.

e. Bất luật nghi

Bất luật nghi: Những ai giết dê, giết gà, giết lợn, bắt chim, bắt cá, săn thú, trộm cướp, đao phủ[54], bắt rắn[55], cai ngục, nấu thịt chó, đặt bẫy lưới. Vô biểu sắc bất thiện hoạt động tiếp nối trong khắp thân này.

f. Phi luật nghi phi bất luật nghi

Phi luật nghi phi bất luật nghi[56]: tạo lập Tì-ha-la, Tốt-đổ-ba, Tăng-già-la-ma v.v... lễ nơi tháp miếu, đốt hương, rải hoa, tán tụng, hướng nguyện v.v... và đánh đập,khởi phát đa dạng vô biểu sắc thiện, bất thiện hoạt động tương tục

Cũng có vô biểu chỉ trong một sát-na. 

Vì y chỉ chủng loại tổng quát nên nói là tương tục.

g. Thời hạn thọ và xả luật nghi

i.Luật nghi biệt giải thoát của bảy chúng thệ thọ suốt đời. Luật nghicận trụ thứ tám chỉ hạn định trong một ngày một đêm.

Bảy loại biệt giải thoát luật nghi trước do bốn nguyên nhân mà xả: 

(1)Do từ bỏ học xứ

(2) Do mạng chung

(3) Do thiện căn bị cắt đứt. 

(4) Do phát sinh hai hình cùng lúc.

Luật nghi cận trụ cũng được xả do nguyên nhân này và thêm nữa do vì đêm đã qua.

ii. Đắc luật nghi tĩnh lự:do đắctâm thiện thuộc sắc giới

Xả: do xảtâm thiện thuộc sắc giới, thuộc về tâm đó. 

Xả luật nghi vô lậu cũng như vậy. Tùy thuận tâm vô lậu, mà đắc, hoặc xả.

iii. Đắcbất luật nghi do làm và thệ thọ.

Các bất luật nghi được xả do bốn nguyên nhân:

(1) Do đắcluật nghi. 

(2) Do mạng chung

(3) Do phát sinh hai hình. 

(4) Do đắc pháp nhĩ tâm thiện thuộc sắc giới.

Vô biểu xử trung, (1)đắc do làm: tâm tịnh ân cần, phiền não mạnh mẽ, nhạy bén,lễ tán tháp miếu và đánh đập v.v... (2) dothệ thọ mà đắc:nghĩa làtự thệ rằng: “Nếu chưa lễ Phật, tạo Mạn-trà-la thì chưa ăn”, các nguyện như thế. (3) do xả nên đắc:xây cất chùatháp, tăng xá, tọa cụ, vườn rừng, bố thí cho Bí-sô v.v... 

Xả vô biểu này, là do đẳng khởi của tâm và cơ sở hành vi đã làm đều tan rã.

Vô biểu như vậy và năm căn đã nói trên như nhãn v.v… chỉ là đối tượng thông tri cá biệt của ý thức. Đến mức độ này, gọi là sơ khởi cú nghĩa sắc. 

III. Phân biệt pháp tướng

Nhưng các pháp tướng khái lược có ba loại: (1) Tự cộng tướng. (2) Phần cộng tướng. (3) Biến cộng tướng

1. Tự cộng tướng: vì là cáibiến hoại, biến ngại, đó gọi là sắc. 

Như vậy, tức thuyết minh về nghĩa có thể gây não hoại. Như bậc Pháp vương đã nói: “Bí-sô nên biết! Do biến hoại, nên gọi là sắc thủ uẩn”.

Cái gì làmbiến hoại? Vì xúc bởi tay nên làm biến hoạinói chi tiết cho đến

Như vì có thể đi nhanh, nên gọi là ngựa. Do có thể đi chậm, nên nói là bò, trâu v.v...

Phần cộng tướngphi thường tính, khổ tính v.v..

Biến cộng tướng: tính vô ngã, tính không.

Do phương diện này, nên biết đối với tất cả phápcó ba hình thái.


Phước Nguyên dịch & chú

[1]Định nghĩa theo động từ căn √rup/ lup: gây tổn hại; hoặc định nghĩa theo động từ căn √rūp: tạo hình, định dạng. Cf. PTS, S. iii, tr. 86: kiñca bhikkhave rūpaṃ vadetha. ruppatīti kho bhikkhave tasmā rūpan ti vuccati kena ruppati. Sītena.., “Này các Tỷ-kheo, thế nào gọi là sắc? Nó băng hoại, này các Tỷ-kheo, vì vậy nó được gọi là sắc. Bị băng hoại bởi cái gì? Bởi đá, v.v…” Theo ngữ nguyên này, rūpa, do động từ rump[lump]: vỡ, tan vỡ.

[2]Tập dị môn 1, tr. 369c7: 色云何?答:四大種及所造色,是謂色.

[3]Đại chủng 大種, Skt. mahābhūtaKośa i.: “Bốn yếu tố này do duy trì sắc phái sinh (upādāyarūpa)và yếu tính cá biệt, nên gọi là giới (dhātu). Bốn giới này được gọi là bốn đại chủng”.

[4]Thuận chánh lý 2, tr. 335c13: “Vì duyên cớ gì các đại chủng này được gọi là giới? (dhātu)? Vì là môi trường xuất sinh hết thảy sắc pháp. Và các đại chủng cũng được xuất sinh từ các đại chủng. Trong thế gian người ta gọi môi trường xuất sinh là giới. Như mỏ vàng được gọi là giới của vàng”.

[5]Cf.Thuận chánh lý 2, tr. 335c18: “Vì sao gọi là chủng?... Khi các chủng loại sai biệt của sắc sinh khởi, những sai biệt về phẩm loại cũng sinh khởi; do đó nói là chủng... Hoặc pháp xuất hiện thì được gọi là hữu. Sinh trưởng hữu tính, do đó nói là chủng”. Theo định nghĩa này, từ bhūta(chủng) do gốc động từ b: tồn tại, trở thành.

[6]自相   sva-lakṣaṇa         rang gi mtsan nyid

[7]共相   sāmānya-lakṣaṇa  spyi'i mtsan nyid

[8]所造色           upādāya-rūpa       rgyur byas pa'i gzugs

[9]Trì nhiếp thục trưởng 持攝熟長, dhṛtisaṃgrahapaktivyūhana

[10]Tì-bà-sa 127, tr. 66311: 何故名大種。答大而是種。故名大種.

[11]Tì-bà-sa 127, tr.662b21. 

[12]自果  sva-phala            rang gi 'bras bu

[13]Thuận chánh lý 2, tr. 335c-336a: “Vì dụng đại, nên nói là đại... Hoặc, bốn nguyên tố này là sở y của tất cả sắc, nên nói là đại”. Cf. Kośa i: Nói là «đại» vì là sở y cho hết thảy sắc khác; vì sự thô lớn của nó. Hoặc vì khối lớn tổ hợp trong các khối tụ tập chuyển biến tăng thịnh của đất, nước, lửa, gió”.

[14]遍 biến, audārikatvāt: thể khoan quảng (rộng lớn).

[15]Ngũ sự 1, tr. 990a6: “Vì sao đại chủng chỉ có bốn?Hiếp Tôn giả nói: Câu hỏi này là phi lý, vì nếu có giảm hoặc tăng sẽ đồng thờitạo nghi điểm. Ở đây do không trái với pháp trướng, nên nói bốn là không lỗi.

Có thuyết nói: Vì nhằm ngăn chận ngoại đạo nói đại chủng có năm, nên chỉ nói bốn thứ, vì ngoại đạo kia chấphư không cũng là đại chủng”.

[16]無堪能 Aśakta, las su mi rung ba

[17]Thuận chánh lý 2, tr. 336b1: “Đại chủng chỉ có bốn, không tăng không giảm. Các vị Tì-bà-sa nói: giảm tức vô hiệu, tăng tức vô dụng, như sàng tòa túc. Như chân của giường nằm. Có thuyết nói: Đại chủng pháp nhĩ là bốn”.

[18] Từ upādāya(sở tạo): được dồn lại, phái sinh. Tì-bà-sa 127, tr. 663a22: “Tạo (upādāya) có nghĩa là gì?... Tạo có nghĩa là nhân (hetu)”.

《a bì đạt ma thuận chánh líluận》quyển5:「thử phục

vân hà?vị vô biểu nghiệp yđại chủng sanh,cố danh sở tạo

」(CBETA,

T29, no.

1562, p.

356b18-19)

[19]Theo đây, giải thích ngữ nguyên bhautika, tính từ phái sanh của bhūta: bhūteṣu bhavatvāt, tồn tại trong các đại chủng, hay y trên các đại chủngtồn tại.

[20]顯;hiển sắc, varṇa

[21]形;hình sắc, saṃsthāna

[22]4 cái đầu thuộc về sắc màu (hiển sắc,varṇa); những cái còn lại thuộc về hình thể (hình sắcsaṃsthāna).

[23]Kośa imahikā = nīhāraḥ,mù tức sương mù, Ht. diễn thêm: 地水氣騰說之為霧, “Hơi nước từ đất bốc lên gọi là mù 霧”.

[24]Kośa ichāyā = yatra rūpāṇāṃ darśanam, “bóng có ở nơi nào xuất hiện sắc”.

[25]Skt. ātapa, hơi nóng, ánh nắngKośa iātapaḥ = sūryaprabhā, sáng nắng tức ánh sáng mặt trời.

[26]Kośa iālokaḥ = candratārakāgnyoṣadhimaṇīnāṃ prabhā, “Sáng ánh tức ánh trăng, ánh sao, ánh lửa, ánh sáng châu ngọc”.

[27]Kośa iviparyayād andhakāram, “trái lại với bóng (chāya) là bóng tối”.

[28]Kośa itatra sātam = samasthānam, phẳng là hình thể bằng phẳng.

[29]Kośa ivisātam = viṣamasthānam, không phẳng là hình thể không bằng phẳng.

[30]Pháp uẩn, bản Việt tập I, tr. 544, Cht. 6-15: “Sắc được phái sinh bởi bốn đại chủng, gồm có (a) xanh, vàng, đỏ, trắng, mây, khói, bụi, mù; (b) dài, ngắn, vuông, tròn, cao, thấp, phẳng, không phẳng; (c) bóng , màu nắng, màu sáng, bóng tối; (d) có người kể thêm màu da trời, là một hiển sắc; (e) màu pha tạp, hồng, tím, biếc, xanh lục, đen, nâu sám”. 

[31]Skt. viṣaya-vijñapti, 了別境yul rnam par rig pa

[32]Skt. upātta; Ht. hữu chấp thọ 有執受. Abhidh-k-vy, tr. 34: pratyutpannānīndriyāvinnirbhāgāni bhūtāny upāttāni, “các nguyên tố không tách rời các quan năng hiện tại, là các nguyên tố có cảm thụ”. Tức chỉ loại vật chất nhạy cảm. Chấp thọ ở đây đồng nghĩa với chấp thủ.

[33]無執受          anupāttama zin pa

[34]Abhidh-k-vy 26: pratyutpannānīndriyāvinirbhāgāni bhūtāny upāttāni, “các nguyên tố không tách rời các quan năng hiện tại, là các nguyên tô có cảm thụ”, Thuận chánh lý 4, tr.352b7: “cái được tâm tâm sở nhận làm tự thể, được tâm tâm sở nắm giữ và lấy đó làm sở y, cái đó được nói là hữu chấp thọ.” Quang ký: có chấp thọ, đồng nghĩa có giác thọ. Tức chỉ loại vật chất nhạy cảm, có cảm giác. Năm căn hiện tại thuộc hữu chấp thọ, quá khứvị lai thuộc vô chấp thọ. Các loại săc khác hiện tại còn liên hệ đến căn thì thuộc hữu chấp thọ, nêu tách rời căn thì thuộc vô chấp thọ. Như tóc, móng, phần gốc liên hệcảm giác nên thuộc hữu chấp thọ; phần ngoài không có cảm giác thuộc vô chấp thọ.

[35]Tức âm thanh phát ra từ vật chất không có cảm giác.

[36]

[37]Kośa i, tụng 10b: thanh có 8. Trong đó tổng thể có 2: (i) từ đại chủngchấp thọ(upātta), âm thanh phát ra từ vật chấtcảm giác; (ii) từ đại chủng không có chấp thọ(anupātta), âm thanh từ vật chất không có cảm giác. (i) và (ii) mỗi loại lại có hai: (a) hữu tình danh (sattvākhya), từ cơ thể sinh vật; (b) phi hữu tình danh (asattvākhya), vật chất vô tri. Từ (a) và (b) mỗi thứ có hai: khả ái và phi khả ái.

[38]Kośa i: Hương có bốn, vì do sự sai biệt của mùi thơm và mùi thối, bình hoặc gắt (sugandhadurgandhayoḥ samaviṣamagandhatvāt). Nhưng do trong Bản luận (Phẩm loại 1, tr. 692c22) chỉ kể có ba loại: thơm, thối, bình (trividhas tu śāstre-sugandhaḥ, durgandhaḥ, samagandha iti).

[39]Câu-xákể thêm: mùi gắt, xem Cht.37dẫn thượng.

[40]Kośa i: vị có sáu loại, đó là, ngọt, chua, mặn, cay, đắng, nhạt (rasaḥ, ṣoḍhā, madhurāmlalavaṇakaṭukatiktakaṣāyabhedāt).

[41]Kośa i.k.10d: “Xúc có mười một tự thể (spṛśyam ekādaśātmakam). (Giải thích) có mười một tự thể được xúc chạm: bốn đại chủng, trơn, nhám, nặng, nhẹ, lạnh, đói, khát (spraṣṭavyam ekādaśadravyasvabhāvam-catvāri mahābhūtāni, ślakṣṇatvam, karkaśatvam, gurutvam, laghutvam, śītam, jighatsā, pipāsā cêti)”. 觸Xúc, phân biệt hai nghĩaspṛśya, cái xúc chạm (năng xúc) tức quan năng xúc giác; và spraṣṭavya, cái bị xúc chạm (sở xúc), đối tượng xúc giác.

[42]

[43]Giải thích chi tiết 7 hạng mục này, xem Ngũ sự 2,tr. 992b25.

[44]Vô biểu nghiệp mà tự thể là vô biểu sắc, là quan điểm đặc sắc của hữu bộ. Theo Hữu bộ duy chỉ thân và ngữ có vô biểu, ý không có vô biểuPhẩm loại (T26n1542, tr. 693a03): “Vô biểu sắc là gì? Đó là sắc được bao hàm trong pháp xứ. Sắc này cùng với năm sắc căn trong mọi thời được nhận tức bởi một thức; đó là ý thức”.

[45]Kośa i: “Vô biểu tuy có tự thể là hoạt động của sắcnhư hữubiểu nhưng nókhông biểu thị cho người khác nhậnthức”.

[46]Abhidh-k-vy 29yad dhi vastu rūpasvabhāvam eva na kṛiyāsvabhāvaṃ. tan na paraṃ gamayati. tadyathā cakṣurādayaḥ. yad api kriyāsvabhāvam eva na rūpasvabhāvaṃ. tad api paraṃ na gamayati. tadyathā cetanā. yat tūbhayasvabhāvaṃ. tat paraṃ gamayati. tadyathā vijñaptiḥ. vijñaptir hi svasamutthāpakaṃ cittaṃ kuśalākuśalāvyākṛtaṃ saumyaṃ krūram anubhayam iti vā paraṃ vijñāpayati. “Vật thể nào mà có tự tính là sắc nhưng không có tự tính làhành động nó không tỏ cho người khác biêt, như mắt các thư. Cái mà có tự tính là hành động nhưng không có tự tính là sắc, nó cũng khôngtỏ cho người khác biết, như tâm tư. Cái mà có cả hai tự tính, cai đótỏ cho người khác biết, như biểu. Do vậy, biểu là cái thông tri cho ngườikhác biết tâm đẳng khởi của chính ta là thiện, bât thiện hay vô ký, làhiền lành hay hung dữ, hay cả hai”.

[47]Luật nghi 律儀, Skt. saṃvara, do động từ saṃ-vṛ(saṃvṛṇoti): trùm kín, bao phủ, từ đó hàm nghĩa phòng hộ, chế ngự.Kośa iv: “Nói là luật nghi, hay phòng hộ, là sự đình chỉ, sự chế ngự dòng thác ác giới” ()

[48]Kośaiii.: “Thế nào gọi là bất luật nghi? Nghĩa là āurabhrikāḥ(giết dê), kaukkuṭikāḥ(giết gà), saukarikāḥ(giết heo), śākunikāḥ(bắt chim), mātsikāḥ(bắt cá), mṛgalubdhakāḥ(săn thú), caurāḥ(trộm cướp), vadhyaghātakāḥ(đao phủ/ khôi khoái), nāgabandhāḥ(bẫy voi), bandhanapālakāḥ(cai ngục), śvapākāḥ(nấu thịt chó), vāgurikāśca (đặt bẫy lưới). Hán dịch, Hiển tông 20, tr. 0872c02; Thuận chánh lý 39, tr. 0563a06.

[49]Kośa iv: saṃvaraśca, asaṃvaraśca, tābhyāṃ cetaro naivasaṃvaro nāsaṃvaraḥ, “luật nghi, bất luật nghi, và không phải hai loại trên, tức phi luật nghi phi bất luật nghi”.

[50]Kośa iv: prātimokṣasaṃvara ihatyānāṃ kāmāvacaraṃ śīlam, “Biệt giải thoát luật nghi, đó là giới thuộc dục giới trong đời này”.

[51]Kośa iv: dhyānāsaṃvaro rūpāvacaraṃ śīlam, “Tĩnh lự luật nghi, giới thuộc sắc giới.

[52]Kośa iv: anāsravasaṃvaro’nāsravaṃ śīlam, “Vô lậu luật nghi, giới vô lậu”.

[53]bhikṣusaṃvaraḥ, bhikṣuṇīsaṃvaraḥ,śikṣamāṇāsaṃvaraḥ,śrāmaṇerasaṃvaraḥ, śrāmaṇerīsaṃvaraḥ,upāsakasaṃvaraḥ,upāsikāsaṃvaraḥ,upavāsasaṃvaraś.

[54]Vadhyaghātaka: thi hành án phạt xử tử. Ht. 魁膾 khôi khoái.

[55]Phược long 縛龍, trói rồng, nên hiểu là bắt rắn. DhskD. nāgamaṇḍalikāḥ (Tib. glang po che 'dzin pa): người bắt rắn, So sánhKośaiii.nāgabandhāḥ, Hán dịch: khiên tượng giả 牽象者, tróc tượng giả 捉象者, phược tượng 縛象. Abhidh-k-vyhasTibandha, bẫy voi, cũng có nghĩa là xiềng xích voi. Quang ký 15, tr. 0233c12: dùng chú thuật trói rồng hoặc rắn khiến làm trò để kiếm sống. Tì-bà-sa 117, tr. 0607b02-03.

[56]Tì-bà-sa 117, tr.608c6

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12644)
Với người xuất gia, phẩm vị được khẳng định ở giới hạnh chứ không phải ở tuổi tác. Có thể đầu xanh tuổi trẻ nhưng vẫn được tôn trọng cung kính...
(Xem: 14533)
Lòng tin là không nghi ngờ, không thắc mắc, không do dự, trung thành, tín cẩn. Khi nói chuyện với một người, có khi chúng ta tin liền điều người ấy nói...
(Xem: 38537)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 14668)
Chi tiết nổi bật nhất của pho tượng là đôi chân không tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền mà lại có vẻ như buông lơi: một chân gập lại và một chân buông thõng.
(Xem: 14666)
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
(Xem: 14090)
Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
(Xem: 14983)
Nghiệp là một quy luật tự nhiên và khách quan, vận hành hoàn toàn phù hợp với những hành động của chúng ta. Nghiệp tự thân nó là một quy luật nên không cần phải có người làm luật.
(Xem: 16584)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
(Xem: 29957)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 16248)
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở lại làm người, sinh lên cõi Trời...
(Xem: 15582)
Tinh thần giác ngộgiải thoát của đức Phật không những chỉ có trong kinh điển Phật giáo Tiểu thừa mà có cả trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 14936)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14934)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17919)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15627)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38735)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26789)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39708)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50843)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38799)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 35116)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18349)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16516)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42472)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39304)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35663)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17504)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46582)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17184)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28522)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 19022)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17630)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17140)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17597)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16559)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16949)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30918)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16968)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18546)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18513)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17413)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18188)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 17106)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23554)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 17050)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17488)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17728)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 17110)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15780)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 18088)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17456)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17261)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29587)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27793)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18203)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16140)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15395)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 23098)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14872)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 55172)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant