Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiến Trình Hoạt Động Của Tâm

20 Tháng Bảy 201904:19(Xem: 4760)
Tiến Trình Hoạt Động Của Tâm
Tiến Trình Hoạt Động Của Tâm
Thích Minh Chánh chuyển ngữ

          Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi  đang  ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức ( bhavaïga, tiềm thức, tâm hộ kiếp). Chúng ta luôn kinh qua một trạng thái tiêu cực như vậy khi tâm mình phản ứng lại các đối tượng bên ngoài. Dòng chảy vô thức  (bhavaïga) này bị gián đoạn khi các đối tượng thâm nhập vào tâm. Kế đó, tâm vô thức (bhavaṅga) rung động trong một chóc lát ý tưởng và biến mất.

          Do vậy, ngũ môn hướng tâm[1] (pañcadvārāvajjana) sanh khởihoại diệt. Trong giai đoạn này, dòng chảy vô thức tự nhiên bị kiềm chế và hướng về đối tượng. Ngay lập tức, sau đó, nhãn thức[2] (cakkhuviññāṇa), cái biết của con mắt) sanh khởihoại diệt, nhưng nó không hiểu biết gì hơn ngoài việc thấy đối tượng. Hoạt động cảm giác này được theo sau bởi một sự tiếp thu về đối tượng đã nhìn nhận(sampaṭicchana) trong chóc lát, hay còn gọi là Tiếp thọ tâm[3]. Từ đó, đưa đến khả năng dò xét, thẩm tra (santãraõa) hoặc sự nghiên cứu nhất thời về đối tượng đã tiếp nhận, hay còn gọi là Suy đặc tâm[4]. Kế tiếp, đưa đến giai đoạn nhận định mô tả, được gọi là Xác định tâm[5] (votthapana). Do đó, sự phân biệt được thực hiện trong giai đoạn này. Đây là thời điểm mà ý thức góp phần tham dự theo lãnh vực của nó.

Sau đó, ngay lập tức, có một giai đoạn tâm tâm lý quan trọng nhất được gọi xung lục (động lực thúc đẩy) hay Tốc hành tâm[6] (Javana) sanh khởi. Đây là giai đoạn mà một hành động được đánh giá là thiện hay bất thiện. Theo đó, nghiệp (kamma) được tạo ra trong giai đoạn này; nếu nhìn nhận đúng đắn (yoniso manasikàra) thì xung lực (Janava) trở nên thiện lành (thiện); nếu nhìn nhận sai lầm (ayoniso manasikàra) thì xung lực trở nên xấu ác( bất thiện). Trong trường hợp của một vị A-la-hán (Arahant), thì xung lực (javana) này không phải thiện cũng không phải bất thiện, mà chỉ là chức năng (kiriya). Giai đoạn xung lực này luôn luôn trãi qua bảy sát-na (trong chóc lát) tư tưởng hoặc lúc chết, nó chỉ trãi qua năm sát-na tư tưởng. Toàn bộ tiến trình xảy ra trong một thời gian ngắn và kết thức bằng tâm ghi nhận hay tâm đăng kí (tadàlambana) trãi qua hai sát-na tư tưởng . Như vậy, để hoàn tất một tiến trình tư tưởng, cần phải trãi qua 17 sát-na tâm (chập tư tưởng).

          Ba loại tâm hộ kiếp (bhavaïga) này là tâm quả (vipàka). Chúng là một trong hai sát-na suy lường phân tích (suy đặc tâm, santãraõa cittas) cùng sanh khởi với thọ xã (sự buông bỏ) mà đã được đề cập đến ở trên, hoặc một trong tám loại tâm hành tuyệt mỹ (sobhana vipàka cittas, Duy tác tịnh quang tâm), sẽ được trình bày trong phần sau (đoạn 6). Ngũ môn hướng tâm (pañcadvārāvajjana) là một tâm hành (kiriyā citta). Năm thức ( pañca viññāṇa: nhãn, nhỉ, tỉ, thiệt, thân thức) là một trong mười tâm quả (vipāka cittas) thiện và bất thiện. Tiếp thọ tâm (sampaṭicchana) và suy đặc tâm (santīraṇa) cũng là tâm quả (vipāka cittas). Ý môn hướng tâm (manodvārāvajjana) là một tâm hành (kiriyā citta) có chức năng như xác định tâm (votthapana). Chúng ta có thể ứng dụng ý chí tự do của mình trong giai đoạn này. Bảy sát-na tư tưởng của xung lực ấy tạo nên nghiệp (kamma). Đăng kí tâm (tadālambana) là một loại tâm quả (cipāka citta), là một trong ba loại suy đặc tâm (santīraṇa citta), hoặc là một trong tám tâm quả tuyệt mỹ (sobhana vipāka cittas).

          Như vậy, trong một tiến trình tư tưởng đặc biệt, có nhiều sát-na suy nghỉ sanh khởi và chúng được gọi là nghiệp (kamma), quả (vipāka), hay hành (kiriyā).

          Tiến trình của tâm—theo Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), khi một đối tượng xuất hiện trong tâm thông qua một trong năm giác quan, thì tiến trình ấy hoạt động như các biểu đồ sau..

          Biểu đồ 1 

Sát-na tâm

 

1

Atīta Bhavaṅga (Bhavaṅga vừa qua)

2

Bhavaṅga Calana (Bhavaṅga giao động)

3

Bhavaṅgupaccheda (Bhavaṅga dứt dòng)

4

Pañcadvārāvajjana (Ngũ Môn Hướng Tâm)

5

Pañca Viññāṇa (Ngũ Quan Thức)

6

Sampaṭicchana (Tiếp Thọ Tâm)

7

Santīraṇa (Suy Đạc Tâm)

8

Votthapana (Xác Định Tâm)

9

Javana (Xung Lực)

10

11

12

13

14

15

16

Tadālambana (Đăng Ký Tâm)

17

 

 Biểu Đồ 2

Citta - 89 
Tâm

Lokuttara - 8 
Siêu thế

Magga - 4 
Đạo

Phala - 4 
Quả

Arūpāvacara - 12 
Vô sắc giới

Kusala - 4 
Thiện

Vipāka - 4 
Quả

Kriyā - 4 
Hành

Rūpāvacāra - 15 
Sắc giới

Kusala - 5 
Thiện

Vipāka - 5 
Quả

Kriyā - 5 
Hành

Kāmāvacāra - 54 
Dục giới

Sobhaha - 24 
Đẹp

Kusala - 8 
Thiện

Vipāka - 8 
Quả

Kriyā - 8 
Hành

Ahetula - 18 
Vô nhân

Ākusalavipāka - 7 
Quả bất thiện

Kusalavipāka - 8 
Quả thiện

Kriyā - 3 
Hành

Akusala - 12 
Bất thiện

Lobha - 8 
Căn tham

Paṭigha - 2 
Căn sân

Moha - 2 
Căn si

 

 Biểu Đồ 3

Citta - 89 (121) 
Tâm

Akusala - 12 
Bất thiện

Kusala - 21 (37) 
Thiện

Kāmāvacara - 8 
Dục giới

Rūpāvacara - 5 
Sắc giới

Arūpāvacara - 4 
Vô sắc giới

Lokuttara - 4 (20) 
Siêu thế

Vipāka - 36 (52) 
Quả

Kāmāvacara - 23 
Dục giới

Rūpāvacara - 5 
Sắc giới

Arūpāvacara - 4 
Vô sắc giới

Lokuttara - 4 (20) 
Siêu thế

Kriyā - 20 
Hành

Kāmāvacara - 11 
Dục giới

Rūpāvacara - 5 
Sắc giới

Arūpāvacara - 4 
Vô sắc giới

         

 



[1] Ngũ môn hướng tâm chỉ là phản xạ tự nhiên của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân trên đối tượng tương ứngCụ thể như khi một người nằm ngủ, bỗng có tiếng động làm anh ta giật mình, toàn thân người ấy bị đánh thức và hướng đến đối tượng. Nhưng thật ra vì là tiếng động nên chỉ có nhĩ môn thật sự hướng đến đối tượng. Nếu là hình ảnh thì nhãn môn hướng đến, nếu là sự đụng chạm thì thân môn hướng đến v.v...

[2] Nhãn Thức: nếu đối tượng là sắc pháp (rupa), thì thức này phụ thuộc vào năm đối tượng của giác quan.

[3] Tiếp thọ tâm: sau khi một trong 5 thức khởi lên thì tâm tiếp nhận đối tượng. Giả sử như nhãn thứckhởi lên thì sự tiếp nhận sẽ giống như chiếc máy hình bấm nút để thu hình.

[4] Suy đặc tâm: sau khi thu hình vào, đây là lấy mắt làm điển hình, thì nó hiện lên trên phim (ví dụ máy hình) từng chi tiết của đối tượng, giai đoạn này mang tính phân tích.

[5] Xác định tâm: sau khi ghi nhận từng chi tiết một cách phân tích, tâm bắt đầu tổng hợp các chi tiết để hình thành toàn diện đối tượng, và xác định đó là hình gì.

[6] Tốc hành tâm: là giai đoạn quan trọng hình thành sự tạo tác của tâm kéo dài đến 7 sát-na. Nó chính là hành trong ngũ uẩn. Hầu hết các tâm sở quần tụ ở đây tùy theo tính chất thiện, bất thiệnbất động hay siêu thế tâm. Mạt-na thức nằm trong tốc hành tâm này.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3497)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 7355)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4523)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4578)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7351)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2969)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12221)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 4000)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3813)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4229)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3690)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5068)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6695)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4013)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4129)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5345)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3792)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4538)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3560)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3935)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4396)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5396)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3847)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3942)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3879)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4832)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4531)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4272)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3844)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4646)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4214)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6117)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4611)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4957)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4197)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4829)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5673)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3655)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4051)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4593)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5289)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3150)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4768)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4559)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4302)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4751)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4498)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4608)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7227)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5215)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5010)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4600)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5620)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5282)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4164)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6024)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4722)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4884)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5494)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5624)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant