Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Phật Cũng Cạo Tóc Như Những Tỳ-kheo Khác

08 Tháng Bảy 202019:56(Xem: 6206)
Đức Phật Cũng Cạo Tóc Như Những Tỳ-kheo Khác
Đức Phật Cũng Cạo Tóc Như Những Tỳ-kheo Khác 

Thích Trung Hữu


Đức Phật Cũng Cạo Tóc Như Những Tỳ-kheo Khác

Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến một số người băn khoăn không biết Đức Phật ngày xưacạo tóc như những Tăng Ni khác hay không.


Theo kinh điển thì Đức Phật cũng mang hình thức “đầu tròn áo vuông”. Bài viết này xin được nêu ra một số bản kinh để chứng minh cho điều này.

Kinh Ambattha (A-ma-trú) thuật lại rằng: Một thời Thế Tôn đang du hành tại nước Kosala (Câu-tát-la), và đến tại một làng Bà-la-môn ở Kosala tên là Icchānankala. Bà-la-môn Pokkharasàdi trong làng nghe đồn Sa-môn Gotama là bậc Thế Tôn, A-la-hán, Chánh Đẳng Giác nên muốn đến yết kiến. Ông bèn sai đệ tử là thanh niên Ambattha đi đến gặp Đức Thế Tôn để tìm hiểu xem Ngài có được tốt đẹp như lời đồn không. Khi gặp Thế Tôn, thanh niên Ambattha đi qua đi lại, thốt ra những lời hỏi thăm nhát gừng trong khi Thế Tôn đang ngồi. Thấy vậy, Thế Tôn nói với thanh niên Ambattha:

- Có phải, đối với các bậc Bà-la-môn Trưởng lão, đứng tuổi, các bậc giáo sư và Tổ sư, ngươi cũng nói chuyện như vậy, như ngươi đã đi qua lại thốt ra những lời hỏi thăm nhát gừng trong khi Ta đang ngồi, hay đứng lại thốt ra những lời hỏi thăm nhát gừng trong khi Ta đang ngồi?

- Không phải vậy, này Gotama. Phải đi mà nói chuyện với một vị Bà-la-môn, này Gotama, nếu vị ấy đang đi. Phải đứng mà nói chuyện với một vị Bà-la-môn, này Gotama, nếu vị ấy đang đứng. Chỉ với những vị Sa-môn hèn hạ, trọc đầu, đê tiện, đen đủi, sanh từ nơi chân của bà con ta, thì ta mới nói chuyện như vậy, như với ngươi, Gotama(1).

Kinh Sangārava thuật lại rằng: Một thời Thế Tôn du hành trong nước Kosala. Lúc bấy giờ, một nữ Bà-la-môn tên Dhananjāni (Đa-na-xa-ni) có lòng tín thành Phật, Pháp và Tăng. Rồi nữ Bà-la-môn khi bị trượt chân, thốt lên ba lần cảm hứng ngữ: “Đảnh lễ Đức Thế Tôn ấy, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác!”. Thanh niên Bà-la-môn tên Sangàrava là người tinh thông ba tập Veda, nghe nữ Bà-la-môn Dhananjāni nói như vậy liền tức giận nói: “Nữ Bà-la-môn Dhananjāni này thật là hạ liệt, vì rằng trong khi các Bà-la-môn đang còn sống lại nói lời tán thán Sa-môn trọc đầu ấy”(2).

Kinh Dhananjāni kể rằng: Một thời Thế Tôn ở Rājagaha (Vương Xá). Lúc bấy giờ, nữ Bà-la-môn Dhananjāni, có lòng tín thành đối với Phật, Pháp và Tăng. Khi bưng cơm cho chồng đã hứng khởi thốt lên ba lần lời cảm hứng: “Đảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác!”. Nghe nói vậy, Bà-la-môn nói với nữ Bà-la-môn Dhananjāni: “Như vậy, trong mọi thời, mọi dịp, kẻ hạ tiện này nói lời tán thán vị Sa-môn trọc đầu ấy”(3).

Kinh Sundarika kể rằng: Một thời Thế Tôn ở giữa dân tộc Kosala. Lúc bấy giờ Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja làm lễ cúng dường lửa. Rồi Bà-la-môn sau khi tế lửa, làm lễ cúng dường lửa xong, từ chỗ ngồi đứng dậy, nhìn xung quanh tất cả bốn phương và nghĩ: “Ai có thể hưởng thọ món ăn cúng tế còn lại này?”. Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja thấy Thế Tôn đang ngồi dưới gốc cây, đầu được bao trùm liền tay trái cầm món ăn cúng tế còn lại, tay phải cầm bình nước đi đến Thế Tôn. Thế Tôn nghe tiếng chân của Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja liền tháo đồ trùm ở đầu. Và Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja nghĩ: “Đầu vị này trọc, vị này là người trọc đầu”, nghĩ vậy, muốn trở lui”.(4)

Kinh Khomadusa kể rằng: Một thời Thế Tôn ở giữa dân chúng Sakka, tại thị trấn tên là Khomadussa. Rồi Thế Tôn vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát, đi vào thị trấn Khomadussa để khất thực. Lúc bấy giờ các Bà-la-môn gia chủ ở Khomadussa đang tụ họp tại hội trường để giải quyết một vài vấn đề và trời đang mưa nhỏ hột. Rồi Thế Tôn đi đến hội trường ấy. Các Bà-la-môn gia chủ ở Khomadussa thấy Thế Tôn từ xa đi đến, bèn nói: “Những Sa-môn đầu trọc ấy là ai?”.(5)

Qua những bài kinh trên, chúng ta thấy rằng hình ảnh Đức Phật với đầu được cạo trọc là một hình ảnh bình thường trong mắt mọi người lúc bấy giờ. Kinh Giới phân biệt kể rằng: Tôn giả Pukkusati một lần tình cờ gặp Đức Thế Tôn tại nhà thợ gốm Bhaggava nhưng vẫn không biết đó là Thế Tôn: “Này Tỷ-kheo, trước đây ông đã thấy bậc Thế Tôn ấy chưa? Và nếu thấy, ông có nhận ra được không? - Thưa Hiền giả, trước đây tôi chưa từng thấy bậc Thế Tôn ấy. Và nếu thấy, tôi không nhận ra được”.(6) Điều đó cho thấy rằng về mặt hình tướng, Đức Phật cũng giống như những tu sĩ Phật giáo khác. Mặc dù Đức Phật có tướng tốt nhục kế trên đỉnh đầu nhưng đó có thể là bởi đỉnh đầu của Ngài chỉ hơi nhô cao lên một chút thôi, chứ không phải một búi tóc cao, to thường thấy ở các hình tượng hay tranh ảnh về Ngài. Nếu Đức Phật để tóc một cách đặc biệt như những hình tượngchúng ta thờ ngày nay, chắc chắn Tôn giả Pukkusati vừa nhìn thấy đã biết ngay đó là Đức Phật.


Không chỉ có Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cạo tóc, hình thức “đầu tròn áo vuông” còn là truyền thống của ba đời chư Phật. Kinh Ghaṭīkāra ghi rằng: Thuở xưa vào thời Đức Phật Kassapa (Ca-diếp) có người thợ gốm tên là Ghaṭīkāra. Thanh niên Jotipāla là người bạn chí thân của thợ gốm Ghaṭīkāra. Vì muốn cho bạn mình được lợi ích nên thợ gốm Ghaṭīkāra rủ thanh niên Jotipāla đi đến yết kiến Thế Tôn Kassapa, nhưng thanh niên Jotipāla không có lòng tin và nói với thợ gốm Ghaṭīkāra rằng: “Thôi vừa rồi, bạn Ghaṭīkāra, yết kiến Sa-môn trọc đầu như vậy để làm gì?”.(7)

Nếu Đức Phật cũng cạo tóc, cũng “đầu tròn áo vuông” như những Tăng Ni khác thì tại sao các nghệ nhân, họa sĩ khi tạo hình tượng của Ngài lại có búi tóc nhô cao như vậy? Đó là vì khi tạo hình Đức Phật, người ta muốn khắc họa nổi bật, thể hiện rõ nét tướng nhục kế và tướng tóc xoăn thành vòng theo chiều bên phải của Đức Phật để ai nhìn vào đều có thể biết được Ngài có những tướng đó. Đây là một sự “cách điệu hóa” được phép sử dụng trong lĩnh vực nghệ thuật nhằm nhấn mạnh hay chuyển tải một ý nghĩa nào đó của đối tượng nghệ thuật. Cùng ý nghĩa này, ta thấy các nghệ nhân thường hay vẽ một vòng hào quang bao quanh đầu Đức Phật hay các vị Bồ-tát, trong khi hầu hết người thường đều không thể nhìn thấy hào quang.


Theo lịch sử Đức Phật Thích Ca, sau khi vượt thành Ca-tì-la-vệ, Ngài đã cắt tóc xuất gia, vậy thì không lý nào sau khi thành đạo Ngài lại để tóc. Khi đắc đạo, hóa độ đệ tử, thành lập Tăng đoàn, Thế Tôn và các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni mỗi nửa tháng đều cạo tóc. Nhân đây người viết cũng mạn phép xin có một ý kiến nhỏ như sau. Mỗi nửa tháng Tăng Ni đều cạo tóc một lần vào ngày 14 và 30 âm lịch, trước khi làm lễ sám hối và bố-tát, đây là quy định của Tăng đoàn từ xưa đến nay. Nhưng gần đây chúng tôi thấy rằng một số Tăng Ni rất tùy tiện trong việc cạo tóc. Họ muốn cạo khi nào thì cạo chứ không cần đúng ngày quy định. Có người mỗi tuần cạo một lần. Có người trước khi dự đám xá hay lễ lộc gì thì cạo tóc… cho đẹp (do vậy mà nhìn vào một buổi lễ người ta thấy chư Tăng Ni có người tóc dài có người tóc ngắn rất không thuận mắt). Chúng ta nên biết rằng việc cạo tóc đối với người tu không hề giống như người ngoài đời hớt tóc. Hớt tóc thì khi nào thích thì hớt và hớt kiểu gì cũng được. Nhưng cạo tóc là một pháp tu, cạo tóc không phải để cho sạch, cho đẹp mà là để “hủy hình” nhằm trừ bỏ tham ái. Chúng ta phải cạo tóc đúng nửa tháng là để giữ cái “đạo thường”, không nôn nóng, không giải đãi, không rơi vào hai cực đoan bất cập và thái quá. Nếu chúng ta không hiểu được những điều này thì hình thức “đầu tròn áo vuông” có lẽ không còn ý nghĩa gì nhiều nữa. 
 
Thích Trung Hữu
_______
(1) Kinh Trường bộ, kinh A-ma-trú số 3.
(2) Kinh Trung bộ, kinh Sangàrava số 100.
(3) Kinh Tương ưng bộ 1, chương 7: Tương ưng Bà-la-môn, phẩm A-la-hán thứ nhất.
(4) Kinh Tương ưng bộ 1, chương 7: Tương ưng Bà-la-môn, phẩm A-la-hán thứ nhất.
(5) Kinh Tương ưng bộ 1, chương 7: Tương ưng Bà-la-môn, phẩm Cư sĩ thứ hai.
(6) Kinh Trung bộ, kinh Giới phân biệt số 140.
(7) Kinh Trung bộ, kinh Ghaṭīkāra số 81.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23125)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34704)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32277)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30483)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30760)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 21078)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20230)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19501)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24440)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30776)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15718)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27875)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19832)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15621)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23328)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23654)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17597)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15771)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21982)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 38099)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22254)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23312)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21432)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28463)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32623)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25252)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34745)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 23024)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27769)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31365)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13640)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25276)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27907)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22159)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20772)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22253)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27226)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24209)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 22003)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14800)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23259)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 24109)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21196)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14253)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 20015)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22590)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14127)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 28114)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22929)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28302)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 11069)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28581)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31656)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26291)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 15048)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28092)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7515)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25460)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20770)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21227)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant