Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bốn Phương Pháp Cảm Hóa Lòng Người

30 Tháng Chín 202006:53(Xem: 3792)
Bốn Phương Pháp Cảm Hóa Lòng Người
Bốn Phương Pháp Cảm Hóa Lòng Người

Thích Chân Tính

Bon phuong phap

LỜI MỞ ĐẦU


Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý, địa vị danh lợi, vợ đẹp con xinh, đã từ bỏ mọi sự hưởng thụ sung sướng để dấn thân vào rừng, tu hành khổ hạnh, tìm cầu chân lý, cứu độ chúng sinh.

Sau khi thành đạo, vì lòng thương chúng sinh nên Ngài đã đi gần khắp đất nước Ấn Độ và dùng mọi phương tiện để hoằng pháp lợi sinh cho đến ngày nhập Niết-bàn. Ngài thấy được chúng sinh đang chìm đắm trong bể ái sông mê, từ chỗ tham đắm ngũ dục mà gây tạo ác nghiệp, để rồi phải chịu quả báoluân hồi trong ba cõi sáu đường. Do mỗi chúng sinhcăn cơ, trình độhoàn cảnh khác nhau nên Ngài phải dùng rất nhiều phương tiện để hóa độ, hướng dẫn họ về nương tựa chính pháp. Trong đó, Ngài đã chỉ dạy cho hàng đệ tử phương pháp để hoằng pháp lợi sinh sao cho có được kết quả, đó là “Tứ nhiếp pháp”[1], gồm có: bố thí nhiếp, ái ngữ nhiếp, lợi hành nhiếpđồng sự nhiếp. Sau đây tôi sẽ chia sẻ cụ thể về bốn phương pháp này, giúp chúng ta hiểu rõ để có thể ứng dụng vào sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh.

 

1. BỐ THÍ NHIẾP


Bố thí nhiếp là đem những gì mình có bằng vật chấttinh thần để cứu giúp người khác khi cần thiết, tạo dựng lòng tin cho họ, từ đó mang Phật pháp đến để giáo hóa họ. Có ba cách bố thítài thí, pháp thívô úy thí. Tài thícho hay hiến tặng tiền bạc, của cải vật chất. Pháp thícho hay hiến tặng Phật pháp. Vô úy thícho hay hiến tặng sự không lo sợ.

Thứ nhất là tài thí. Trong cuộc sống, có rất nhiều người có hoàn cảnh khó khăn, bị bệnh tật, tai nạn, thiên tai,… Khi gặp những người như vậy, chúng ta dùng tiền bạc, của cải vật chất giúp đỡ họ, chắc chắn sẽ tạo được thiện cảm với họ. Nhờ đó, chúng ta nói Phật pháp, họ sẽ dễ tiếp nhận hơn. Còn khi họ đang đói khổ, mình nói Phật pháp, chưa chắc họ đã nghe. Người ta no bụng thì nói người ta mới nghe.

Người xưa thường nói: “Có thực mới vực được đạo”. Chẳng hạn như ở những vùng sâu vùng xa, người dân còn khó khăn về kinh tế, nếu chúng ta vào đó tổ chức thuyết pháp thì chắc chắn sẽ khó có kết quả vì rất ít người đến nghe. Còn nếu chúng ta đem tiền, gạo, quần áo, đồ dùng tặng cho họ thì họ sẽ đến đông hơn, nhờ vậy chúng ta mới có cơ hội nói Phật pháp cho họ nghe. Hoặc là trong dịp lễ Phật đản, chúng ta tổ chức bố thí gạo và thực phẩm để giúp đỡ những người nghèo xung quanh một ngôi chùa nào đó. Để được nhận quà thì người ta phải đến chùa, nhân cơ hội này chúng ta chia sẻ Phật pháp với họ.

Tôi thấy tài thí là cách rất cần thiết để hoằng truyền Phật pháp, nhất là đối với những người còn khó khăn, nghèo khổ. Riêng những người khá giả thì chúng ta không bố thí tiền bạc, vật chất mà cho kinh sách, băng đĩa Phật pháp để họ xem, nghe. Tâm lý con người rất lạ, mặc dù có tiền, thừa khả năng tự mua kinh sách, băng đĩa, nhưng nếu được tặng thì họ thấy rất quý, rất vui. Đó là cách mà chúng ta dùng của cải vật chất để hoằng pháp lợi sinh.

Thứ hai là pháp thí. Chúng ta phải tìm cách đem Phật pháp đến cho mọi người để họ biết nhân quả, tội phước; biết điều lành, điều dữ; biết tu nhân, tích đức; biết vô thường, vô ngã, duyên sinh; biết cái nào là thật, cái nào là giả; biết con đường nào là hạnh phúc, giải thoát; con đường nào là đau khổ, luân hồi.

Nếu chúng ta bố thí tài sản, vật chất mà không bố thí pháp thì chưa đủ, bởi vì tiền bạc của cải chỉ sử dụng được một thời gian ngắn là hết. Thí dụ, chúng ta cho đi vài ký gạo hoặc vài trăm nghìn, họ xài vài bữa là hết, nhưng cái khổ của họ vẫn còn, không những khổ đời này mà còn khổ cả đời sau.

Do vậy, sau khi bố thí tài cần phải bố thí pháp. Hiểu được Phật pháp thì mới có thể chuyển hóa khổ đau. Đời này họ chịu quả khổ là do đã gieo nhân bất thiện trong quá khứ, nhưng nếu không biết nhân quả thì họ vẫn sẽ tiếp tục làm những điều bất thiện. Bởi vì, khi đói khổ người ta hay làm liều, làm bậy, miễn là có tiền. Cứ như thế, trong đời này và nhiều đời sau, họ vẫn phải chịu đau khổ. Nếu trước kia họ gieo hạt ớt, bây giờ họ phải ăn quả cay. Ngày nay, nếu họ gieo hạt mít thì chắc chắn trong tương lai họ sẽ được quả ngọt. Chúng ta bố thí pháp là giúp cho họ hiểu được nhân quả, tội phước, biết tu nhân tích đức, gieo trồng nhân tốt để tương lai được hưởng quả lành. Chỉ có Phật pháp mới có thể giúp họ chuyển hóa đau khổ thành an vui, hạnh phúc.

Nhân quả của khổ đau và hạnh phúc được đức Phật chỉ rõ trong pháp Tứ diệu đế. Đức Phật chỉ ra đâu là khổ, là nguyên nhân của khổ; đâu là hạnh phúcnguyên nhân đưa đến hạnh phúc. Muốn được quả an vui, hạnh phúc, chúng ta phải gieo nhân tốt đẹp, thiện lành. Nhờ biết đến Phật pháp, họ nhận thức được rằng đau khổ hay hạnh phúc không phải do ông trời hay người nào mang đến, mà là do chính mình tạo ra. Hiểu được như vậy, khi đau khổ tới, họ sẽ không tìm đến con đường rượu chè, xì ke, ma túy, không chán nản, không oán trời trách đất, và cũng không vì quẫn trí mà tự tử. Tôi biết có người nghĩ rằng, sống mà phải chịu đựng đau khổ thì tốt hơn hết là tìm đến cái chết để được nhẹ nhàng, thanh thản. Nhưng sự thật là chết cũng không giải quyết được đau khổ. Nghiệp kiếp này chưa trả hết thì kiếp sau phải trả tiếp, tức là kiếp sau vẫn khổ, thậm chí có thể còn khổ hơn kiếp này.

Rất ít người tự đặt câu hỏi: “Mình sinh ra trên cuộc đời này để làm gì, sau khi chết sẽ đi về đâu?”. Chúng ta chỉ biết nghĩ đến chuyện làm sao được ăn ngon, ngủ kỹ, có tiền, có tình, có danh lợi, địa vị. Chúng ta cứ luẩn quẩn với ba việc: ăn, ngủ, làm, rồi đến ngày nào đó nhắm mắt lìa đời, thế là xong một kiếp người. Có câu chuyện vui như sau:

Hai anh bạn gặp nhau, anh này hỏi:

- Lâu nay bạn làm gì?

Anh kia trả lời:

- Tôi đạp xích lô.

- Anh đạp xích lô để làm gì?

- Để kiếm tiền.

- Kiếm tiền để làm gì?

- Để ăn.

- Ăn để làm gì?

- Để sống.

- Sống để làm gì?

- Để đạp xích lô.

Cuộc sống của chúng ta cũng giống như câu chuyện vui của hai anh này, ngày này sang ngày khác, cứ luẩn quẩn trong vòng kiếm tiền, ăn uống, vui chơi, ngủ nghỉ,... Đôi khi, vì miếng ăn mà giết hại chúng sinh; hoặc vì muốn có tiền bạc, sắc đẹp, danh lợi mà làm những điều tội lỗi. Tạo nghiệp như vậy, chắc chắn chúng ta phải trả quả, phải xoay vần trong vòng luân hồi đầy đau khổ. Thanh Sĩ có bài thơ rất hay:

Kiếp thì bị treo thân lủng lẳng,
Kiếp thì ngồi chổng cẳng ra oai,
Kiếp thì chết chẳng chôn thây,
Kiếp thì tống táng chật ngoài chật trong.
Khi thì xác trôi sông chập chã,
Khi thì thây tan rã giữa đồng.

Kể sao hết chuyện não lòng,
Của tiền kiếp khách trần hồng đã mang.
Kiếp làm gái chịu đàng đẻ chửa,
Kiếp làm trai con vợ đùm đề.
Khi thì trọn kiếp phu thê,
Khi thì bướm chán ong chê giữa chừng.

Có khi bị cùi phong xụi bại,
Có khi thì điên dại mù câm,
Sống không nhà cửa ăn nằm,
Lang thang đường phố xin ăn qua ngày.

Có kiếp bị bọn trai lừa gạt,
Có kiếp thì bị thác vì tình.
Kiếp thì làm đĩ bán mình,
Kiếp thì cô quạnh trong tình cấm cung.
Khi thì được anh hùng vang dội,
Khi thì mang lấy tội phản thần.
Lúc thì quý tựa vàng cân,
Khi thì rẻ nát còn hơn con dòi.

Kiếp thì được người coi vua chúa,
Kiếp thì ra thân đứa ăn mày.
Mới cười kế khóc chua cay,
Cứ như thế đó đổi thay không ngừng. (Trích Đường giải thoát – tập 3)


Trong bài thơ này, Thanh Sĩ chỉ mới diễn tả cảnh luân hồi qua những kiếp làm người. Cõi người đã khổ như vậy, nếu rơi vào ba đường ácđịa ngục, ngạ quỷ, súc sinh thì còn khổ hơn gấp trăm ngàn lần. Vì thế, chúng ta phải biết yêu thương mọi người, phải tìm cách để họ biết đến Phật pháp, hiểu được nhân quả, tội phước.

Theo tôi nghĩ, trên thế giới này, chỉ có khoảng một phần ba người biết đến Phật pháp, hai phần ba người còn lại không biết đến Phật pháp. Thật ra, trong vòng sinh tử luân hồi, từ vô thủy kiếp đến nay, mỗi kiếp sinh ra chúng ta đều có ông bà, cha mẹ, anh em, con cháu, họ hàng, cứ luân hồi vòng tới vòng lui, rốt cuộc mọi người đều là người thân của chúng ta. Bây giờ, họ không biết Phật pháp, không hiểu nhân quả, gây tạo tội lỗi, bị đọa vào ba đường ác thì chúng ta có vui không? Chúng ta tìm hiểuthực hành Phật pháp, thấy được lợi ích thì chúng ta phải làm sao cho người thân của mình cũng hiểu biết Phật pháp, để mọi người đều được an lạchạnh phúc. Chẳng hạn như khi ăn một món ngon, chúng ta thường nghĩ đến những người thân yêu và muốn chia sẻ với họ. Cũng vậy, chúng ta nên có tâm nguyện đem ánh sáng Phật pháp đến với mọi người, gần nhất là gia đình mình, rồi đến những người xung quanhcuối cùng là tất cả chúng sinh.

Có rất nhiều cách bố thí pháp như: giảng pháp, ấn tống kinh sách, đem kinh sách, băng đĩa tặng hoặc cho mượn. Chúng ta cũng có thể khuyến khích người ta đi chùa tham dự các khóa tu. Chẳng hạn, chùa Hoằng Pháp mỗi tháng đều tổ chức Khóa tu niệm Phật một ngày, chúng ta cố gắng động viên người thân hoặc bạn bè đến chùa tu, không tu được một ngày thì tu nửa ngày, không tu được nửa ngày thì tu một giờ, không tu được một giờ thì tu nửa giờ. Phải tìm mọi cách khuyến khích họ đến chùa, phải cố gắng tạo điều kiện để họ tu. Đó là chúng ta đang gieo duyên cho họ.

câu chuyện kể về một người con hiểu đạo rất mong muốn cha mình tu tập, nhưng người cha thì lại mê tiền chứ không mê tu. Người con đến chùa than thở với thầy trụ trì:

- Cha con không muốn tu, tu mà có tiền ông mới chịu tu.

Nghe vậy, vị thầy này bèn nghĩ ra một kế và bàn với người con. Sau đó, người con về thưa với người cha:

- Cha ơi, lúc này Phật sự của chùa đa đoan, thầy trụ trì không có thời gian niệm Phật, thầy nhờ cha niệm Phật giúp.

- Tao có thời giờ đâu mà niệm Phật.

- Thầy nhờ cha niệm Phật rồi thầy trả tiền cho cha.

- Ờ được, niệm Phật mà có tiền thì tao niệm.

- Thầy bảo cha niệm bằng xâu chuỗi 108 hạt, cứ niệm hết một xâu là được nhận một quan tiền.

- Được rồi, tao chấp nhận. Ở ngoài làm sao thì làm, chứ với mấy thầy thì phải làm cho đúng, cho đàng hoàng. Một xâu là một quan tiền, cứ được mười xâu thì tao sẽ tặng cho thầy thêm hai xâu nữa.

Thế là người cha bắt đầu niệm Phật. Hằng ngày, mỗi khi niệm xong, ông qua chùa lấy tiền. Ông không biết rằng tiền đó là của người con đưa cho thầy trụ trì để trả công niệm Phật cho ông. Thấy có tiền, ông rất phấn khởi, niệm Phật ngày càng tinh tấn. Mặc dù niệm Phật chỉ để kiếm tiền, nhưng sau một thời gian, ông thấy tâm mình được định tĩnh, an lạchạnh phúc, có khi ngồi niệm say mê mấy tiếng đồng hồ mà không biết mệt. Khi thấy được lợi ích của việc niệm Phật, ông không còn lấy tiền của thầy trụ trì nữa. Người con vô cùng vui mừng khi đã giúp được cha mình biết niệm Phậttu tập.

Câu chuyện này là một bài học cho chúng ta. Là Phật tử, chúng ta nên đưa Phật pháp vào gia đình, khuyến hóa người thân của mình biết tu hành. Có như vậy, cả chúng ta và người thân mới cùng được an vui, hạnh phúc.

Trước đây, khi đi hoằng pháp ở các vùng sâu vùng xa, tôi thấy có một số em nhỏ đến chùa. Hỏi thăm thì có em mới học hết lớp một, có em thì học hết lớp sáu, lớp bảy, ít có em nào học hết trung học. Tôi biết rằng vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên các em không được đi học, tôi rất thương và muốn làm sao cho các em biết đến Phật pháp để có được cuộc sống tốt đẹp hơn ở hiện tại và tương lai. Thế nhưng, tôi chỉ ở đó được vài tiếng đồng hồ rồi lại đi, nên chỉ còn cách cho kinh sách để các em đọc. Tuy nhiên, suy đi nghĩ lại, sợ rằng các em còn nhỏ, chưa thể đọc hiểu được kinh. Tôi liền nghĩ, các em nhỏ thường thích đọc truyện, vậy nên tôi sẽ cho các em những cuốn truyện Phật giáo để thông qua những mẩu chuyện này, các em có thể tiếp cận Phật pháp, hiểu được nhân quả dễ dàng hơn.

Sau chuyến hoằng pháp đó, tôi bắt đầu tìm những cuốn truyện đưa về vùng sâu vùng xa cho các em. Tôi tìm được một bộ truyện tên là Truyện Cổ Phật Giáo, gồm năm tập, mỗi tập dày tầm ba đến bốn trăm trang, giá tiền khoảng trên một trăm nghìn đồng. Nếu cho các em bộ truyện này với số lượng lớn, chắc là tôi không đủ khả năng. Hơn nữa, đọc kỹ trong đó, tôi thấy có nhiều mẩu chuyện dành cho nhiều trình độ khác nhau, nên sẽ có những truyện các em đọc cũng không hiểu được. Vì thế, tôi đã tự sưu tầm và chọn lọc ra được mười mấy mẩu chuyện nhân quả. Dự định trong năm nay, tôi sẽ xin phép in thành sách để đưa về các vùng sâu vùng xa. Độ dài cuốn sách này chỉ hơn một trăm trang, không những có nội dung phù hợp với lứa tuổi các em mà chi phí in ấn cũng phù hợp với khả năng của tôi. Chúng ta cho cuốn sách mỏng như vậy vừa cho được nhiều, vừa có kết quả, hơn là tặng một bộ truyện đắt tiền mà chưa chắc các em đã đọc và hiểu được hết. Sau khi xuất bản cuốn truyện nhân quả này, tôi sẽ biếu tặng quý vị, để quý vị mang về cho con cháu ở nhà. Nếu ban đầu các em còn ngại đọc thì quý vị nên bảo ban, hướng dẫn, cùng đọc với các em và có thể có phần thưởng khuyến khích. Đó là cách để quý vị đưa Phật pháp đến với con cháu của mình. Quý vị phải có tình thương đối với con cháu, phải làm thế nào đó để các em biết đến nhân quả, biết đến Phật pháp.

Trong tâm nguyện của tôi, lúc nào tôi cũng nghĩ đến chuyện giúp cho những người mới bước vào đạo hiểu được Phật pháp. Cho nên, những cuốn sách tôi viết hoặc dịch phần lớn nhằm vào các đối tượng sơ cơ. Ở ngoài đời, có thầy dạy tiểu học, trung học, đại học. Ở trong đạo cũng vậy, có thầy dạy Phật pháp sơ cấp, trung cấp rồi cao cấp. Tôi chỉ dạy Phật pháp sơ cấp, quý vị học với tôi, khi thấy mình hiểu và thực tập được rồi và muốn tìm hiểu nhiều hơn thì có thể học tiếp ở các vị thầy khác nữa.

Thứ ba là vô úy thí. Vô úy nghĩa là không sợ, vô úy thí nghĩa là giúp người khác có niềm tin, nghị lực để vượt qua những lo sợ trong cuộc sống. Chẳng hạn, có những người bị bệnh ung thư muốn tìm đến cái chết để thoát khỏi sự đau khổ đang giày vò mình. Chúng ta biết chuyện, đến an ủi, động viên, giúp họ có niềm tin, nghị lực vượt qua đau khổ, khó khăn, tiếp tục sống để điều trị bệnh tật. Chúng ta dùng giáo lý nhân quả để phân tích cho họ hiểu rằng, ngày nay họ chịu đau khổ như vậy là do nhân quá khứ họ đã gieo. Tại sao cùng là con người mà có người khỏe mạnh hạnh phúc, có người bệnh tật đau khổ? Đó là do nhân và quả của mỗi người. Nếu giải quyết sự đau khổ bằng cách tự tử thì đây là việc làm vô nghĩa, vì kiếp này chưa trả hết nghiệp thì kiếp sau cũng sẽ lại bị bệnh tật để tiếp tục trả nghiệp. Hiểu được điều này, họ sẽ không tự tử nữa, mà cố gắng vượt qua để tìm lại niềm vui trong cuộc sống.

Hoặc có những người đang rất đau khổ vì mất người thân, thậm chí còn bị thần kinh, điên loạn. Khi gặp hoàn cảnh như vậy, chúng ta cần phân tích cho họ hiểu rằng ai sống trên thế gian này cũng đều phải chết, không có ai sống mãi, sống hay chết là do nhân duyên, nghiệp báo. Ngày xưa, vào thời đức Phật, có một bà mẹ bị mất đứa con đầu lòng. Bà rất đau khổ, ôm con khóc hoài, khóc mãi. Người hàng xóm thấy vậy khuyên bà nên đi gặp đức Phật, có thể Ngài sẽ giúp được bà. Bà nghe nói thế liền đến gặp đức Phật, xin Ngài cứu con bà. Đức Phật nói:

  • Được, ta sẽ cứu con bà sống lại. Bây giờ, bà hãy đi xin một ít hạt cải đem về đây, nhưng với điều kiện là phải xin ở nhà nào chưa từng có người chết.

Bà mẹ mừng rỡ, ôm con đi đến từng nhà xin hạt cải, kèm theo câu hỏi:

  • Từ trước đến giờ, trong nhà có ai chết không?

Ai cũng nói rằng hạt cải thì họ không thiếu, nhưng trong nhà họ từng có người chết, không ông bà thì cha mẹ, không cha mẹ thì anh chị em, không anh chị em thì con cháu. Lúc đó, bà mẹ chợt bừng tỉnh. Bà đem đứa con đi thiêu, rồi đến gặp đức Phật. Khi bà đến, đức Phật hỏi:

  • Con của bà đâu?

Bà thưa:

  • Bạch đức Thế Tôn! Con đã giác ngộ được rằng tất cả đều là vô thường, ai cũng sẽ phải chết. Con đã thiêu đứa con của con rồi. Con đến đây để xin đức Thế Tôn độ cho con được xuất gia

Có thể thấy, đức Phật đã bố thí vô úy một cách vô cùng khéo léo.

Hoặc có những người bị chồng hoặc vợ bỏ, vì buồn quá có thể họ sẽ đi uống rượu, nhậu nhẹt, thậm chí là tự tử cho quên nỗi buồn. Đối với những người này, chúng ta nên khuyên họ rằng, mọi thứ trên cuộc đời này có hợp rồi cũng sẽ có tan. Đôi khi bị chồng hoặc vợ bỏ lại là một sự may mắn. Ngày xưa, thái tử Tất-đạt-đa còn từ bỏ vợ đẹp con xinh để đi tu. Bây giờ chồng hoặc vợ bỏ mình có khi lại là giải thoát, giống như con chim sổ lồng tung bay trên bầu trời tự do, không còn bị ràng buộc gì nữa, như vậy là quá sung sướng rồi, có gì đâu mà phải buồn khổ. Nghe lời khuyên này, có thể họ sẽ tìm được cách suy nghĩ và nhìn nhận tích cực hơn.

Hoặc có những người sắp chết rất hoang mang, đau khổ, không biết chết rồi mình sẽ đi về đâu. Lúc sống thì có người thân bên cạnh, khi chết thì chỉ một mình trơ trọi, không biết ra sao, không biết có bị đọa vào những cảnh giới đau khổ hay không? Lúc đó, chúng ta nên khuyên họ niệm Phật. Nếu có niềm tin vững chắc, họ sẽ không còn hoang mang, lo sợ, và ra đi một cách bình yên. Đó cũng là một cách bố thí vô úy.

Tóm lại, là người Phật tử, ngoài việc trau dồi học hỏi Phật pháp, chúng ta còn phải biết giúp đỡ người khác, bằng ba cách bố thí: Tài thí, pháp thívô uý thí, miễn là phù hợp với hoàn cảnhđiều kiện của mình. Qua đó, chúng ta không chỉ vun trồng ruộng phước cho mình mà còn giúp người biết đến con đường chính pháp, giúp họ hiểu được nhân quả, nghiệp báo và biết tu tập để chuyển hóa nỗi khổ niềm đau trong cuộc đời.


2. ÁI NGỮ NHIẾP


Ái ngữ nhiếp là dùng lời nói êm dịu, nhẹ nhàng, dễ thương để cảm hóa lòng người. Các cụ xưa có câu: “Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Khi nói ra một lời, chúng ta không mất mát gì hết nên cần biết lựa lời mà nói để khiến cho người nghe cảm mến. Lúc đó, chúng ta sẽ thu phục, cảm hóa được họ.

Ái ngữ còn là những lời nói khiêm tốn, lễ phép, hoặc những lời hỏi thăm thân tình. Thí dụ, khi gặp nhau chúng ta thường hỏi: “Anh (chị) dạo này có khỏe không?”. Đôi khi một lời hỏi thăm đơn giản cũng tạo được ấn tượng rất tốt. Hoặc thỉnh thoảng chúng ta gọi điện thoại hỏi thăm sức khỏe của một người thân quen, người đó sẽ cảm thấy ấm áp, cảm thấy được sự quan tâm của mình với họ.

Cùng là ái ngữ, nhưng có nhiều lời nói xuất phát từ tâm ô nhiễm và cũng có những lời nói xuất phát từ tâm trong sạch. Thí dụ, ở ngoài thế gian, nhiều người biết dùng lời nói nhẹ nhàng, dễ thương để lừa lọc, “móc túi” hoặc lợi dụng tình cảm của người khác nhằm đạt được những lợi ích cho mình. Nhưng đối với người con Phật chúng ta, học ái ngữ chỉ với một mục đích duy nhất, đó là đưa người khác đến với Phật pháp, để họ được an vui, hạnh phúc. Vì lời nóisức mạnh rất lớn trong giao tiếp và trong cuộc sống, chúng ta cần phải nói làm sao để người nghe có ấn tượng tốt và ghi nhớ được thông tin.

Khi ta thốt lời ra,
Nói sao cho ôn hòa,
Khiến người nghe cảm mến,
Ghi nhớ mãi không quên.

Mỗi lời nói của chúng ta phải tỏa được hương thơm thanh khiết. Đó là hương thơm của Phật pháp, của sự giác ngộ, của trí tuệtừ bi.

Miệng ta là hoa sen,
Một phen đã hé nở,
Tỏa hương thơm Phật pháp,
Gieo mầm giác cho người.

Một người mà nói lời thô lỗ, cộc cằn thì chắc chắn sẽ khó giáo hóa được người khác. Bởi khi nghe những lời như vậy là người ta muốn chạy rồi, làm sao mình có cơ hội giáo hóa được họ? Cho nên, đức Phật dạy chúng ta phải dùng ái ngữ để thu phục lòng người. Ngoài thế gian, ở các bộ phận chăm sóc khách hàng, tiếp tân hay điện thoại viên, người ta phải dùng những người có giọng nói dịu dàng, dễ nghe để giao tiếp với khách hàng. Trong đạo cũng vậy, chúng ta phải dùng lời ái ngữ để thu phục, cảm hóa người khác, từ đó mới có thể đưa Phật pháp đến được với họ.

Muốn nói được những lời ái ngữ thì phải có sự tu tập, có lòng từ bi, tâm hỷ xả và sự nhẫn nhục. Bình thường chúng ta sử dụng ái ngữ đã khó rồi, đến khi người ta nói lời thô lỗ mà mình vẫn có thể nói chuyện với người ta bằng những lời hòa ái thì càng khó hơn nữa. Phải là người có sự tu tập sâu dày mới làm được như vậy.


3. LỢI HÀNH NHIẾP


Lợi hành nhiếp là dùng lời nói, việc làm để giúp đỡ mọi người, từ đó dần dần cảm hóa họ. Tùy theo khả năng, cảm thấy mình làm được điều gì lợi ích, có thể giúp được cho người khác thì chúng ta cố gắng làm. Những việc làm tốt đẹp của chúng ta sẽ tạo được thiện cảm với mọi người. Nhờ đó, chúng ta sẽ có nhiều thuận lợi hơn khi đưa Phật pháp đến với họ.

Ngày xưa, khi đến những vùng đất mới, các vị cao Tăng không những dấn thân vào xã hội để làm việc mà còn ra sức giúp đỡ mọi người để đến gần hơn với họ. Thí dụ, ngài Trì Địa Bồ-tát đã làm bất cứ việc gì, miễn là việc giúp người dân như: đắp đường, đẩy xe, chèo thuyền,… Nhờ vậy mà Ngài cảm hóa được rất nhiều người.

Ngày nay, nếu có điều kiện thì chúng ta mở những cơ sở sản xuất tạo công ăn việc làm cho mọi người, hoặc mở lớp học tình thương, nhà nuôi dạy trẻ, viện dưỡng lão,… Còn không có khả năng làm những việc lớn như vậy thì chúng ta hãy cố gắng giúp đỡ những người xung quanh khi cần, dù là việc nhỏ. Khi đó, mình sẽ dễ dàng khuyên bảo và cảm hóa họ hơn. Đó là lợi hành nhiếp.

4. ĐỒNG SỰ NHIẾP


Đồng sự nhiếp nghĩa là chúng ta cùng sống, cùng làm việc với người khác để cảm hóa họ. Đây là phương pháp tốt nhất để đưa Phật pháp đến mọi ngõ ngách của cuộc sống. Đối với quý thầy, khi người ta đến chùa thì quý thầy mới có cơ hội nói pháp cho họ nghe, chứ không thể tự nhiên đến nhà hoặc nơi làm việc của họ để nói pháp được. Còn quý Phật tử, hằng ngày gần gũi, thân cận với họ thì sẽ có nhiều cơ hội để giúp họ hiểu biết hơn về Phật pháp.

Vậy chúng ta cảm hóa những người xung quanh như thế nào? Trước hết, bản thân chúng ta phải sống mẫu mực, có đạo đức, chân thật, nhiệt tình, tuân thủ nội quy nơi mình sống và làm việc. Sau đó, chúng ta phải hết lòng giúp đỡ người khác, không quản ngại khó khăn, thật sự sống vì lợi ích của mọi người. Làm được như thế, tự nhiên chúng ta sẽ được mọi người yêu mến. Như vậy, chính chúng ta đã là tấm gương sống tốt đời đẹp đạo rồi, và khi đó cũng dễ dàng chia sẻ Phật pháp, kiến thứckinh nghiệm sống đến với những người xung quanh hơn.

LỜI KẾT


Với tấm lòng từ bi bao la, đức Phật dạy bốn phương pháp này với mục đích giúp chúng ta có thể hoằng pháp lợi sinh được dễ dàng và thuận lợi hơn. Tuy nhiên, theo suy nghĩ của tôi, nếu thực hành Tứ nhiếp pháp trong cuộc sống, bản thân chúng ta cũng có nhiều lợi ích. Chẳng hạn, khi thực hành bố thí nhiếp, lợi hành nhiếpđồng sự nhiếpchúng ta đang tạo dựng phước báu cho chính mình. Còn khi thực hành ái ngữ nhiếpchúng ta đang chuyển hóa khẩu nghiệp của mình trở nên trong sạch hơn. Do vậy, mỗi người chúng ta nên cố gắng phát nguyện thực hành Tứ nhiếp pháp để đem lại lợi ích, an vui cho chính bản thân và cho những người sống xung quanh nữa.

Ngày xưa, cũng nhờ hiểu biết Phật pháp mà tôi phát tâm đi xuất gia. Trong mấy chục năm qua, thấy bản thân mình tu được lợi ích gì thì tôi cũng cố gắng giúp cho nhiều người có được lợi ích như vậy. Tôi có tâm nguyện là trong cuộc đời mình sẽ cố gắng đưa Phật pháp đến với mọi người bằng mọi cách, chú trọng nhất là ấn tống kinh sách và băng đĩa. Còn đối với quý Phật tử thì tùy phương tiện, miễn là quý vị làm thế nào đó hướng dẫn được những người thân trong gia đình và những người gần gũi với mình hiểu biết Phật pháp để họ sống an vui và hạnh phúc.

Chúng ta có một ngọn đèn sáng thì nên truyền cho nhiều người cùng được sáng như mình. Làm như vậy, ngọn đèn của chúng ta không bị tắt, mà ánh sáng lại ngày càng lan tỏa rộng hơn. Vì thế, tôi vẫn thường khuyên quý Phật tử rằng, mỗi người chúng ta khi đi chùa học Phật pháp, hiểu được ý nghĩa của việc học Phật, thấy được lợi ích của việc tu tập thì phải nghĩ đến những người chưa hiểu Phật pháp, nhất là người thân quanh mình. Mỗi người nên phát nguyện sẽ cố gắng tìm cách giáo hóa được mười người. Không lẽ trong cả đời mình, chúng ta không thể đưa được mười người đến với Phật pháp hay sao? Theo tôi, nếu thật sự có lòng thương mọi người thì chúng ta sẽ làm được, chỉ cần phát khởi tâm từ bi và thực hành đúng chính pháp.

Chúng ta muốn làm cho thế giới này hết chiến tranh, hết khổ đau thì phải nghĩ cách giúp cho mọi người cùng biết tu tập, chuyển hóa bản thân. Chúng ta không thể tách mình ra khỏi cộng đồng. Nếu trong cộng đồng còn có nhiều người bất an, đau khổ, không biết tu tập thì cuộc sống của chúng ta cũng không được yên bình, hạnh phúc. Mong rằng ai cũng có tâm nguyện hoằng pháp lợi sinhcố gắng ứng dụng Tứ nhiếp pháp để giúp cho mọi người đều biết Phật pháp, biết nhân quảphát tâm tu hành.

(Quyển sách này được biên tập từ pháp thoại “Bốn phương pháp cảm hóa lòng người” giảng vào ngày 10 tháng 04 năm 2005, trong Khóa tu niệm Phật một ngày tại chùa Hoằng Pháp, xã Tân Hiệp, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh.)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15518)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13207)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19361)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24623)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15742)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37829)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13479)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13097)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17181)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13205)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17388)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21638)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13219)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14405)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12815)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13657)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28617)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23400)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34382)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28884)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32186)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11329)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12003)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26290)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17375)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14524)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34479)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13112)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12279)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13412)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40515)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26941)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14461)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13255)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13462)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12538)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13151)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12314)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11791)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12574)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17663)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12207)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12754)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18437)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14290)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12995)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11323)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12151)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13467)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10837)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11074)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10290)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28899)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25283)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26851)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25770)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18676)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 23038)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34546)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32185)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant