Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thông Điệp Kinh Pháp Hoa

16 Tháng Mười 202019:26(Xem: 3686)
Thông Điệp Kinh Pháp Hoa
Thông Điệp Kinh Pháp Hoa 

Khải Thiên
Lời Kinh tuyên linh diệu Theo hơi gió bay xa... 

Làm Thế Nào

Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất. Đức Phật thuyết giảng kinh Pháp Hoa trong những năm cuối trước khi Ngài vào Niết bàn. Vì vậy, những lời dạy của Ngài được ghi chép ởđây là những giáo huấn mang tính chất cốt tuỷ của đạo Phật. Trải qua hơn hai ngàn năm, kinh Pháp Hoa vẫn có sức hấp dẫn lạ thường với hầu hết những ai có duyên được tiếp xúc, kể cả hai giới độc giả: tín ngưỡng tôn giáonghiên cứu học thuật.

Nội dung của giáo huấn vĩ đại này bao quát cả chiều dài lịch sử tâm linh của Phật giáo và được tập thành theo từng giai đoạn. Các nghiên cứu hiện đại về sự kết tập kinh Pháp Hoa cho thấy từ chương đầu (chương một) cho đến chương cuối (chương hai mươi tám) có những niên đại khác nhau, cách nhau cả trăm năm. Điều đó nói lên rằng, kinh đã được lịch đại Tổ sư biên tập, bổ sung và truyền thừa qua nhiều thế hệ một cách cẩn trọng. Sự hiện diện của một bộ kinh hoàn hảo, bao gồm hai mươi tám chương như thế, đã giới thiệu cho thời đại của chúng ta đức tính kiên nhẫn lớn lao và tinh thần truyn đăng tc dim của chư lịch đại Tổ sư. Trên thực tế, triết lý của kinh Pháp Hoa, dù ở bối cảnh nào, thời đại nào, cũng xuất hiện như những vầng hào quang sáng ngời và có khả năng cứu độ rộng lớn. Đấy cũng chính là năng lực đặc thù của kinh Pháp Hoa.

Đến với kinh Pháp Hoa nói riêng và kinh Đại thừa nói chung, một số nghi vấn thường được đề cập đến đó là xuất xứ của kinh; và cũng từđó đưa ra những vấn đề, chẳng hạn kinh có phải do đức Phật thuyết hay không? Tuy vậy, những ai thực thụđi vào thọ trì, đọc tụng từng câu kinh sẽ thấy rằng những nghi vấn đại loại như thế tỏ ra không có tác dụng bao nhiêu. Vấn đề đó nguội lạnh như băng tuyếttừ lâu trong lòng người hâm mộ, sống theo tinh thần của Pháp Hoa.

Lịch sử kết tập của bộ kinh đã cho chúng ta thấy rằng, trước khi nó được xuất hiện đầy đủ, chư vị tổ sư, các nhà biên tập kinh Pháp Hoa đã làm những gì cần làm. Và việc làm đó đã diễn ra cả hơn thế kỷ với nhiều thế hệ biên tập. Công đức ấy quả thậtvô lượng vô biên. Ngày nay chúng ta đối trước bộ kinh hoàn hảo, tâm thái của người thọ trì kinh Pháp Hoa hầu như bị cuốn hút rất mãnh liệt một cách lạ thường bởi những giáo huấn thánh diệu, nhiệm mầu, cũng giống như người xem hoa, say mê ngắm nhìn cái đẹp hin tin của hoa ở ngay trước mặt. Đối với người ngưỡng mộ kinh Pháp Hoa, điều quan trọng là nguồn cảm hứng tâm linh nội tại, truyền tải từ triết lý Nhất thừa vô thượng được trình bày trong chính nội dung của kinh chứ không phải là những gì râu ria bên ngoài.

Đứng ở góc độ nghiên cứu, vấn đề sẽ trở nên thú vị hơn khi chúng ta đọc hết hai mươi tám phẩm kinh, đọc với đôi mắt tư duy phân tích, và đọc trong sự liên hệ so sánh giữa hai hệ thống kinh tạng Nam truyền và Bắc truyền. Đọc như thế chúng ta sẽ bắt gặp những mối liên hệ giữa kinh Pháp Hoa với các kinh Nikaya hoặc A-hàm. Và rằng trong tận cùng sâu thẳm, tiếng nói của Pháp Hoa là tiếng nói rất người, rất sống động, và là tiếng nói mang tinh thần khích lệ, rất bao dung nhằm truyền tải thông điệp giác ngộ đến các loài hàm linh, bao gồm con người. Tiếng nói tâm linh mầu nhiệm đó luôn được cất lên sau định ngữ Như thngã văn (Như vầy tôi nghe), được chứng tín và tán dương của cả hai vị Phật hiện tại và quá khứ, Đức Thích Ca Mâu Ni và Đức Đa Bảo Như Lai.

Cái kỳ vĩ của Pháp Hoa, khác với các bộ kinh khác lŕ ở chỗ, đấy là tiếng nói ti hu ca thc ti. Tiếng nói diu âm đó đã dt thành các chương thánh ngvà biến các chương y thành mt bkinh sng, cưu mang ba ngôi Tam bo sng, cu vin, thường tr, bt dit. Đức Phật, trong chương thứ mười sáu, cũng xác định rằng Trong kinh Pháp Hoatoàn thân Như Lai. Thân Như Lai, ởđây, là thân vô tướng, được tác thành từ ánh sáng của Phật huệ (trí tuệ vô lậu) và được gìn giữ trong thánh giáo phương tiện của Phật. Kinh nhấnmạnh rằng, ở đâu có kinh Pháp Hoa, ởđó có Phật. Đấy là một Đức Phật thường trú vĩnh hằng. Ngài đã thành Phật từ vô lượng kiếp và Ngài cũng chưa từng diệt độ. Tuổi thọ của Ngài là vô lượng, vô biên, không thể quan niệm được. Đức Phật ấy vẫn đang thuyết pháp giáo hoá khắp nơi. Ngài hiện hữu một cách thường tại vĩnh hằng như mặt trăng trên trời, dù ánh trăng dưới nước, như chúng ta thấy, có khi ẩn, khi hiện. Ngài là bản thể của chân lý tuyệt đối. Đấy chính là Đức Phật Bổn môn-cửu viễn. Phật của Pháp Hoa là như thế. Cũng vậy, Pháp của Pháp Hoachân lý bn lai thường tch, hiện hữu ở bất kỳ nơi đâu trong thế giới bao la mênh mông vô tận. Pháp luôn xuất hiện như là chính nó, được đức Phật minh định qua mười đặc tính như th(như vy): tướng như vy, tánh như vy, thnhư vy, lc như vy, tác như vy, nhân như vy, duyên như vy, qunhư vy, báo như vy, đầu cui rt ráo như vy. (Chương Phương tiện) Tương tự như thế, Tăng của Pháp Hoa hải hộiquyến thuộc Bồ đề trong pháp giới vô biên, lúc nào và ởđâu cũng có Đức Đa Bảo Như Lai xuất hiện, chứng tín, và cũng để nghe kinh. Điều đáng chú ýởđây, kinh được xem là tng bí yếu ca chư Pht trong ba đời. Vì vậy, chúng ta sẽ khó có thể lĩnh hội được hương vị của Pháp Hoa nếu đọc kinh bằng đôi mắt thường tình, với tâm thức thế gian, hay với nỗi lòng thấp thỏm giữa hy vọngsợ hãi. Rõ ràng cần phải có một cách tư duy khác, một cách tiếp cận khác để có thể kết nối và hoà nhịp cùng với dòng pháp-thc ti sống động của Pháp Hoa.

Cái thách thức lớn nhất đối với người thọ trì, đọc, tụng Pháp Hoachúng ta có thtin rng mình là mt vPht hay không? Chúng tađủ sc tin rng mình ri sthành Pht? Và rng mình có đầy đủ các khtính ca mt vPht? Đặt vấn đề như thế nghe có vẻ quá xa vời với hầu hết mọi người tầm thường như chúng ta. Tuy nhiên đấy lại là nội dung chính, là yếu chỉ Nht Pht tha (chỉ có một Phật thừa) của toàn bộ kinh, và cũng là những gì cốt tuỷ của kinh.

Vậy ct tuca Pháp Hoa là gì? Đó là những giáo huấn thiết thực tràn đầy tình thương của Đức Phật, nhằm soi sáng và dắt dẫn chúng sinh khơidậy Phật tính–chất Phật hay tiềm năng thành Phật– vốn có ở mỗi chúng sinh, không phân biệt tuổi tác, giới tính, hay chủng tộc. Phật tính là những đức tính của tugiác-bình đẳng, được biểu hiện một cách trọn vẹn trong đời sống giác ngộ, giải thoát của một chúng sinh, một vị Bồ tát hay là một vị Phật. Tính chất Phật đó là ánh sáng giác ngộ nội tại, là sự tỉnh thức toàn triệt, được gọi bằng ngôn ngữ tâm linhvô thượng Bồ đề. Kinh xác định rằng, tất cả chúng sinh đều có Pht tính; tất cả chúng sinh đều có khnăng thành Pht; và rằng Pht tính khnăng thành Pht đó luôn bình đẳng đối với tất cả chúng sinh. Trong Phật tính, không có sự khác biệt nào giữa chúng sinh và Phật. Hành trình tâm linh của Pháp Hoa, do đó, là con đường nuôi lớn hạt giống Phật (hay thánh tâm) ở một xác thân phàm tục, phát triển toàn diện các năng lực của Phật tính để trở thành một vị Phật toàn giác ngay trong cuộc sống sinh tử luân hồi. Làm cho tất cả chúng sinh đạt đến vô thượng Bồ đề–thành Phật, là sứ mệnh duy nhất của Pháp Hoa. Đấy là tất cả những gì được nhấn mạnh xuyên suốt trong bức thông điệp Nht Pht tha dài hai mươi tám chương.

Bỏ lại đằng sau những ngôn ngữ thâm áo của triết học, chúng ta có thểđi vào thế giới nhiệm mầu của Pháp Hoa bằng đức tin kiên cốlòng thành kính đối với ba ngôi Tam bảo thường trụ trong mười phương. Chúng ta tin tưởng một cách sâu sắc rằng, do túc phước nhiều đời, chúng ta rất may mắn có được cơ hội nghìn năm một thuởđó là gặp được kinh Pháp Hoa, nghe được kinh Pháp Hoa, và sống tu tập theo những giáo huấn linh diệu của Pháp Hoa. Chính ở kinh Pháp Hoa, lần đầu tiên chúng ta gặp gỡ và tiếp nhận được giáo nghĩa về một Đức Phật vĩnh hằng và toàn thể ba ngôi Tam bảo thường trụ. Khi dốc lòng thành kính thọ trì, đọc, tụng kinh Pháp Hoa, chúng ta có thể tiến xa hơn nữa trên cuộc hành trình tâm linh của mình, đó là trực tiếp tiếp xúc với Đức Phậttiếp nhận thánh giáo từ Ngài. Việc này không phải là điều mơ tưởng hão huyềntrái lại đấy là những gì được Đức Phật xác quyết trong kinh Pháp Hoa.

Trên con đường tu tập, điều quan trọng trước hết là nhận diện được chân tướng của tự ngã–cái tôi, cái ca tôi, cái tngã ca tôi. Tự ngã là cái trở ngại lớn nhất làm cho chúng ta không thể vượt qua điều kiện tâm linh của Pháp Hoa, vào nhà Như lai (tu tập tâm hạnh từ bi), mặc áo Như lai (tu tập hạnh nhu hoà nhẫn nhục), và ngồi toà Như lai (an trú pháp Không). Chính cái tngã cá thtưởng chừng rất mong manh, nhỏ bé, khi ẩn, khi hiện là một thế lực tiêu cực vô hình đẩy chúng ta ra khỏi thế giới bn lai thường tch, một thế giới sống động và tràn đầy phúc lạc. Thế giới thường tch đó không ởđâu xa, nó ở ngay trước mắt chúng ta, bây giờ và ởđây. Và cũng ngay nơi thế giới thường tch này, Đức Phật cửu viễn-Thích ca Như Lai Thế Tôn vẫn đang thuyết pháp giáo hoá chúng sinh. Chính Đức Phật khẳng định rằng, Tnh độ ca ta an n, nhưng trong con mt ca chúng sinh điên đảo, li thy nó cháy ri. (Chương Như Lai Thọ Lượng)

Thêm vào đó, để có thể tiến sâu vào thế giới tâm linh, trực tiếp tiếp xúc với Đức Phật, chúng ta cần nỗ lực quy hướng tâm mình an trú vào bn hoài cu độ tâm đại bi vô lượng của Ngài. Vì nơi đó chính là biển công đức của Phật. Và cũng nơi đó chúng ta có thể gặp gỡ và kết nối với đồng thể đại bi của chư Phật. Như hư không bao la, đồng thểấy thường tại và bao trùm khắp vũ trụ vô biên. Khi tâm an trú vào bn hoài cu độ tâm đại bi vô lượng của Phật, chúng ta sẽ nhận ra rằng mình đang tiếp nhận nguồn phúc lạc cao thượng từ ánh sáng kiết tường của Ngài và đang sống chan hoà trong tình thương của Ngài. Cũng như tất cả loài thảo mộc trong toàn thể thế gian nŕy, từ rong rêu cho đến cổ thụ nghìn năm, nếu chúng không bị che phủ bởi một lớp ngăn cách bên ngoài, thì đều có thể tiếp nhận năng lượng ánh sáng của mặt trời, dù mặt trời cách xa hàng triệu cây số. Hoà nhập với đồng thể đại bi của chư Phật, chúng ta có thể khơidậy các ý niệm thiện lành và đức tin trong sáng; và cũng đủ sức dũng mãnh tin rằng mình có thể trở thành một vị Phật, dù đấy là một vị Phật sơ sinh, bé nhỏ với khả năng tỉnh thức giới hạn. Thật vậy, ánh sáng tỉnh thức đối với tiềm năng thành Phật hay khả thể thành Phật của chúng ta, dù nhạt nhoà như thế nào đinữa, vẫn là mt tia sáng trong ngun sáng vô biên phát sinh từ Phật huệbản hoài cứu độ của Ngài. Đức Phật dạy rằng, Phật tính của chúng sinhPhật tính của mười phương các đức Phật trong ba đời là một, là đồng thể và đồng nhất; nó không hai, không khác. Kết nối với đồng thể đại bi, do đó, cũng giống như kếtnối với sóng truyền thanh, có phương tiện thì có thể thu-phát được. Chính vì vậy Đức Như lai đã phương tiện tuyên thuyết giáo lý Nhất thừa cho muôn loài chúng sinh theo một cách thức đặc biệt mà kinh mô tả là đánh trống pháp lớn, thổi pháp loa lớn, mưa pháp vũ lớn. Vì giáo pháp ấy chỉ có một mục đích duy nhất đó là dìu dắt chúng sinh đi vào Phật đạo, hay nói khác đi, là làm cho mỗi mỗi chúng sinh đều có thể trở thành Phật (khai, th, ng, nhp Pht tri kiến). Đứng ở góc độ này, chúng ta mới phần nào cảm nhận được tâm đại bi vô lượng vô biên của Đức Phật đối với muôn loài chúng sinh.

Thật vậy, như gã cùng tử mãi miết lang thang với cái đói nghèo mà không hề biết rằng mình có một gia tài vô cùng đồ sộ lớn lao. Do không biết được như thế, chúng ta vẫn mãi mang trên vai cái thân phận nghèo khổ với bao mặc cảm tự ti cho đến khi chúng ta thật sự phát hiện được kho báu của chính mình. Mặc dù đấy là kho báu thực thụ của mình, nhưng khi chưa nhận ra, chúng ta vẫn hoàn toàn không thủ đắc được bất cứ cái gì trong tay. (Thí dụ cùng tử) Vì thế, nhn din kho báu ca chính mình là sứ mệnh duy nhất mà chư Phật Thế tôn xuất hiện nơi đời. Nhn din kho báu ca chính mình là tất cả những gì được Đức Phật thuyết giảng một cách rất tỉ mỉ trong giáo thuyết Nhất thừa (ekayāna) hay Phật thừa (buddhayāna) của Pháp Hoa. Nht Pht tha, do vậy, vừa là bản hoài cứu độ của Đức Phật, vừa là chân lý tối hậu (viên giáo), được xếp vào hàng tối thượng trong toàn bộ giáo lý của Ngài.

Điều thú vị khác thường ởđây là cuộc hành trình tu tập Nht tha được hoàn tất ngay từ lúc bắt đầu thay vì kết thúc; đấy là cách thức diễn giải đặc thù của Pháp Hoa về thế giới thường tịch. Trong thế giới Nhất thừa, chúng ta có thể bắt gặp cái bản thể đồng nhất, không hai, không khác ở bắt kỳ nơi đâu, ở vũ trụ bao la hay ở đời sống thường nhật của mình. Hành trình tu tập đó được xác định là nhân qunht như. Điều này được mô tả một cách tinh tếsinh động qua hình ảnh hoa sen, cũng là tên của bộ kinh. Hoa sen được dùng để thí dụ về triết lý nhân qunht như hay nhân quả đồng thi một cách rất đơn giản và sâu sắc. Hạt sen luôn có mặt trong gương sen, dù chúng ta không thấy. Khi hoa nở thì hạt sen xuất hiện, khi cánh hoa rụng, thì hạt sen thành tựu phô bày. Ởđây, không có một khoảng cách thời gian nào từ nhân đến quả; hay nói khác đi, nhân và quả có mặt cùng một lúc. Trong cái nhìn của Pháp Hoa, do vậy, hành giả không phải trải qua bao nhiêu kiếp tu hành rồi mới thành Phật, trái lại, Phật đã có sẵn trong tâm hành giả từ vô thỉ ban sơ,cũng như hạt sen đã có sẵn trong gương sen. Để làm nổi bật ý nghĩa này, kinh nhấn mạnh thêm rằng,

Hành giPháp Hoa là người nguyn tbbáo thân thanh tnh để trli cuc đời làm sgica Pht. (Chương Pháp Sư) Điều này chứng tỏ cho chúng ta thấy tinh thần uy dũng và quyết liệt của Pháp Hoa như thế nào. Làm sứ của Phật, hành giả phát nguyện vào nhà Như,mặc áo Như lai, và ngồi toà Như lai. Qua lăng kính Nht tha, có thể nói tư tưởng Pháp Hoa đãtạo nên sự thay đổi một cách toàn triệt trong cuộc hành trình và mẫu thức tâm linh của hàng Phật tử. Ởđây, không những chỉ có nhân quảnhất như, mà các phạm trù khác cũng được đưavề nhất như, thùy tích, bn tích, quyn tht .v.v. mà chúng ta sẽ bàn đến trong nội dung ở sau.

Đối diện trước thế giới kỳ vĩ của Pháp Hoa, câu hỏi đặt ra cho đời sống tu học thực tế của hành giả là làm thế nào chúng ta có thểđi vào và sống trong thế giới ấy? Đặt câu hỏi như thế là để kiểm nghiệm lại cuộc hành trình tâm linh của mỗi hành giả, một cuộc hành trình được khơidậy từ nguyện ước và khát vọng vô thượng Bồ đề hay nói khác đi là khát vọng được Phật che chở, được thấy Phật, được tiếp xúc với Phật, và rồi được an trú lâu dài trong thế giới tịnh độ của Ngài. Khi nhìn vào thế giới Pháp Hoa, chúng ta sẽ dễ dàng thấy ngay rằng trú xứấy có một chúng hội bao gồm nhiều loại chúng sinh khác nhau, từ hàng Bồ tát, Thanh văn cho đến trời, người, long vương, phi nhâncác loại khác .v.v. cùng với các hàng quyến thuộc sốđông trăm, nghìn, vạn... Nổi bật là một vạn hai nghìn thánh tăng, hai nghìn bậc hữu học, tám vạn đại Bồ tát, nhiều vạn thiên tử (trời), và hàng trăm nghìn người nghe pháp... Rõ ràng, Pháp Hoa không phải là thế giới cô liêu, đơn độc mà có rất nhiều quyến thuộc Bồ đề, những chúng sinh có chung khát vọng giác ngộ-giải thoát cùng gặp nhau. Mặc dù đối tượng chính trong pháp hội là chúng Thanh văn, các Bồ tát và các chúng khác vẫn có mặt để hộ trìkết duyên. Điều này cho chúng ta một thông điệp rõ ràng về hành trình tu tập và sống đạo.

Thật vậy, không ai có thể sinh ra và sống cô độc một mình mà không ít nhiều nhận được sự trợ giúp từ người thân, bạn bè, hay những người độ lượng chung quanh. Nếu nhìn ở khía cạnh xã hội, con người không thể sống mà không có cộng đồng, xã hội. Trong đó tình cảm của thân bằng quyến thuộc như cha mẹ, sư trưởng, anh chị em, bạn bè.v.v. chính là chỗ nương tựa vững chắc, tràn đầy tình thương đã nuôi lớn chúng ta, cho chúng ta niềm tin để xây dựng một cuộc sống an lành. Rõ ràng không ai có thể sống mà không có quyến thuộc. Bên cạnh quyến thuộc hữu tình, chúng ta còn có quyến thuộc vô tình, bao gồm thế giới thiên nhiên, các loài thảo mộc, thực vật, động vật, cho đến ánh sáng mặt trời, mặt trăng, không gian .v.v. Nếu không có ánh sáng mặt trời, sẽ không có thực vật, rau quả, hoa trái, hay thực phẩm để nuôi dưỡng đời sống sinh vật, bao gồm con người. Và sau cùng, Pháp Hoa đã chỉ cho chúng ta một hạng quyến thuộc quan trọng, đó là quyến thuộc tâm linh hay quyến thuộc Bồ đề. Hàng quyến thuộc này trở nên thiết yếu cho đời sống tâm linh của chính chúng ta. Hai hạng quyến thuộc trước có những giới hạnđiều kiện của nó ở thế giới trần tục, trong khi quyến thuộc Bồ đềquyến thuộc của ánh sáng khát ngưỡng giác ngộ, nó mở ra một thế giới bao la vô tận. Nếu nhìn vào sự kỳ thị chủng tộc, sự phân biệt giới tính, sự phân chia giai cấp và bất công trong thời đại ngày nay, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra cái ý nghĩavĩ đại của khái niệm quyến thuc Bồ đề.

Kinh bảo rằng, tất cả chúng sinh đều có Phật tính; do vậy, tất cả chúng sinh đều là quyến thuộc Bồ đề của nhau. Ởđây, Pháp Hoa không loại bỏ bất kỳ một chúng sinh nào, dù đó là kẻ xấu ác. Tư tưởng này được mô tả qua hình ảnh Bồ tát Thường Bất Khinh gặp ai cũng lễ lạyca ngợi tiềm năng thành Phật của họ. (Chương hai mươi) Từ đây, quyến thuộc thế gian của thế giới trần tục, khép kín trong giới hạn của hữu ngã được mở tung ra đến vô tận vô biên, để sức sống tâm linh của mỗi mỗi cá thể hoà điệu cùng nhau như hư không chan hoà cùng ánh sáng. Và cũng nhờđó mỗi chúng ta có thể dìu dắt nhau, nương tựa nhau, và giúp đỡ nhau trên con đường giác ngộ. Cũng từ đây, chúng ta hiểu rằng thân nhân quyến thuộc của mình thật sự không chỉ là những người được mình biết tên, biết tuổi. Trái lại, quyến thuộc của chúng ta lúc nào cũng có mặt ở khắp nơitừ các cõi luân hồi trong sáu nẽo cho đến các thiên giớithánh cảnh của chư Phật, Bồ tát, thánh hiền. Ý thức như vậy, quả thật, trong thế giới tâm linh này chúng ta chẳng bao giờ đơn côi. Quyến thuộc Bồ đề chính là con đường dẫn đến thiên giớitịnh độ của chư vị thánh hiền vốn là bạn lữ của chúng ta. Điều quan trọng là, nếu mỗi ngày chúng ta nghĩ đến mối tương giao thống thiết với hàng quyến thuộc của mình trong giây lát, việc ấy sẽ có lợi ích rất lớn, giúp chúng ta chữa lành bao nhiêu bệnh tật phát sinh từ khổ não, ưu phiền. Về mặt tâm linh, nó giúp chúng ta thấy được tính chất duyên sinh ca vn hu một cách sâu sắc. Và cũng từđó, nuôi lớn thêm chí nguyện, vơi đi các khổđau, và giúp cho cuộc sống của chúng ta trở nên tốt đẹp hơn. Sống với tâm Bồ đề càng thường trực, thì khả năng tự độ càng lớn. Như khi bóc phải cục than hồng trong tay, chúng ta chỉ mong muốn bỏ nó xuống ngay lập tức, càng sớm càng tốt. Do vậy, nuôi dưỡng tâm Bồ đề (khát vọng giác ngộ-giải thoát) và quyến thuộc Bồ đề sẽ giúp chúng ta buông bỏ mọi cố chấp, hận thù, và phát triển đời sống an lạc một cách hữu hiệu và nhanh chóng. Đấy chính là sự giải thoát đích thực của chúng ta; và đấy cũng là ý nghĩatối hậu của toàn bộ kinh Pháp Hoa.

Trên con đường đi đến Nhất thừa, xây dựng quyến thuộc Bồ đề là nhu yếu tâm linh của mỗi hành giả. Quyến thuộcBồ đề càng lớn thì thế giới tâm linh càng rộng. Tương tự như thế đối với thế giới thực tại. Mỗi bông hoa là một thế giới, mỗi hạt sươngmột thế giới, và mỗi hạt bụi cũng là một thế giới. Đấy chính là ý nghĩa bn lai thường tch của Pháp Hoa. Thế giới ấy không cần thêm vào cái gì hay lấy bớt đi cái gì để có thể quan niệm được. Vì nó đã là như vy. Những gì hành giả cần tu tập để có thể thể nhập vào thế giới của Pháp Hoa chính là nuôi dưỡng hơi ấm của trái tim khát vọng vô thượng Bồ đề. Nhân như vy, duyên như vy...!


Kh
i Thiên

Tu Viện Thượng Hạnh-Dallas, mùa An cư -Kiết Đông, 11/ 2019

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1530)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1661)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1634)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1037)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1514)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1497)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1679)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1945)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1535)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1362)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1373)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1558)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1151)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1272)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1286)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1697)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1650)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3008)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1826)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1366)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1220)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1281)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1413)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1325)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1925)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1692)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1894)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1824)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2393)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1786)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2130)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2238)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2302)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1855)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1979)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2032)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1958)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2595)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1948)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1892)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1946)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1898)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2172)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2312)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1986)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2099)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1888)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1913)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2421)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2326)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 4002)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2489)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3205)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2471)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2048)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1800)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3313)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2347)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3032)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant