Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sớm Muộn Sẽ Có Nghiệp Quả

14 Tháng Bảy 202216:17(Xem: 1980)
Sớm Muộn Sẽ Có Nghiệp Quả
Sớm Muộn Sẽ Có Nghiệp Quả

Tấn Nghĩa
Sớm Muộn Sẽ Có Nghiệp Quả

Dân gian thường  nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”. Có người cho rằng “ba họ” có nghĩa là họ bên cha, họ bên mẹ và họ bên vợ (hay bên chồng) (?).“Không ai giàu ba họ” có nghĩa là trong ba họ trên chắc chắn sẽ có người nghèo. Tóm lại, hiểu theo cách này thì trong họ hàng gần chắc chắn có người nghèo. Điều này dường như không chắc đúng vì nếu họ gần của nhà vua đương quyền thì chắc cũng không đến nỗi nghèo. Cũng vậy, có người cho rằng “ba đời” có nghĩa là đời ông, đời cha và đời con. “Không ai khó ba đời” hiểu theo cách này có nghĩa là trong “ba đời” ấy chắc chắn có một đời không bị nghèo  khó. Điều này dường  như cũng không chắc đúng  vì có nhiều trường hợp sự khó khăn cứ xảy ra nhiều trong nhiều thế hệ.

Một cách giải thích khác cho rằng “ba họ” đây có nghĩa là ba họ mà một người lần lượt tái sinh vào và “ba đời” đây là ba kiếp sống của một người. Nghĩa là câu tục ngữ này chỉ nói về chuyện sướng khổ của một cá nhân. Nếu theo cách giải thích này thì, nói chung, con người ta khi sống trong nhiều đời sẽ bị sướng khổ xảy ra luân phiên. Chuyện tiền thân Citta-Shambhuta kể lại một trường hợp như vậy.

Câchuyn này do bậc Đạo sư kể lại khi trú tại Jetavana về hai người bạn đồng tu của Tôn giả Maha Kassapa sống rất hòa hợp với nhau. Chuyện kể rằng đôi bạn này vô cùng thân thiết, đã phân chia mọi thứ cùng nhau hết sức công bình, ngay cả khi khất thực, hai vị cũng cùng đi ra và cùng trở về với nhau, hai vị không chịu rời nhau. Trong Chánh pháp đường, Tăng chúng đang ngồi tán thán tình bằng hữu ấy thì bậc Đạo sư bước vào, hỏi chư vị bàn luận chuyện gì khi đang ngồi tại đó. Tăng chúng thưa lại với Ngài. Ngài đáp: “Này các Tỳ-kheo, tình bạn này trong một kiếp sống chẳng có gì kỳ lạ cả, vì các bậc trí nhân ngày xưa đã giữ được tình bằng hữu vững bền qua cả ba bốn kiếp sống”. Nói vậy xong, Ngài kể cho Tăng chúng câu chuyện quá khứ.

Đức Phật thường khuyên răn các đệ tử khi nói chuyện chỉ nói những  chuyện  hướng  tới mục đích giúp tăng cường sự tự điều chỉnh, không nói chuyện phiếm cho vui. Do đó, Ngài thường hay hỏi các đệ tử về câu chuyện đang  bàn  luận và thường  mở rộng  hay đào  sâu câu chuyện ấy để khuyến khích sự tự điều chỉnh của các đệ tử. Chuyện này cũng vậy.

Một thuở nọ, trong nước Avanti, Bồ-tát tái sinh tại một làng Candala (Chiên-đà-la) ở ngoại ô của kinh thành Ujjeni. Một người khác lại sinh làm con trai của dì ruột ngài. Một cậu bé tên là Citta, cậu kia tên là Sambhuta.

Theo “tổng kết” dân gian, sung sướng (ta gọi là S cho gọn) vài đời thì sẽ cực khổ (ta gọi là K cho gọn) vài đời và ngược lại. Dân gian dừng  lại ở “ba đời”, nghĩa là có những  khả năng sau: S-K-S (một đời sướng, đời kế tiếp khổ, đời kế tiếp sướng), K-S-K, K-K-S, S-S-K, K-S-S, S-K-K. Trường hợp S-K-S xảy ra khi đời đầu tiên, người này đã nhận được một hoàn cảnh sung sướng do các hành vi tốt trong quá khứTuy nhiên, trong hoàn cảnh sung sướng đó, người này làm nhiều điều xấu (ăn chơi, không bố thí, không học hành…) nên đời kế tiếp người ấy gặp hoàn cảnh khổ. Trong hoàn cảnh khổ như vậy, người này hạn chế các hành vi xấu và làm nhiều hành vi tốt (chăm chỉ, chịu khó…) nên trong  đời sống kế tiếp lại được sống trong hoàn cảnh sung sướng. Hai khả năng S-S-S và K-K- K được cho là “không có”, ta nên hiểu là hiếm có. Trường hợp S-S-S xảy ra khi người đó làm nhiều điều rất tốt nên đời đầu tiên sướng. Trong hoàn cảnh sướng, người này tiếp tục làm nhiều điều tốt trong đời thứ hai. Người này có thể làm một số điều xấu nhưng không đáng kể so với điều tốt trong đời thứ nhất nên vẫn tiếp tục sướng. Cũng có trường hợp do đời đầu tiên làm điều quá tốt (bố thí đến các vị tu hành chân chính, học tập, không làm các lỗi lầm…) nên đến đời thứ hai, người ấy làm nhiều điều xấu ít điều tốt nhưng vẫn tiếp tục sướng. Kế đến trong đời thứ ba điều tốt làm được trong hai đời trước vẫn tiếp tục trổ quả nên người này tiếp tục sướng. Tuy nhiên hành vi xấu trong hai kiếp trước tích lũy cũng bắt đầu nhiều, cộng thêm với điều xấu làm trong đời thứ ba sẽ làm cho đời thứ tư của người này có khả năng rơi vào cảnh khổ. Trường hợp K-K-K cũng tương tự (với tốt, xấu đổi vai trò). Đây là trường hợp xảy ra trong câu chuyện này, chúng ta sẽ theo dõi xem nó phát triển như thế nào. Hai cậu bé Citta, Shambhuta rơi vào giai cấp Candala là giai cấp thấp nhất ở Ấn Độ. Như vậy, các hành vi xấu trong quá khứ đã tích lũy đủ để họ tái sinh vào hoàn cảnh không thuận lợi.

Hacu bé lớn lên học được nghề quét bằng chổi và đi trình diễn nghề này tại cổng thành. Một cậu biểu diễn tại cửa Bắc, một cậu biểu diễn tại cửa Đông.

Như vậy, trong đời sống này, hai cậu bé rất chăm chỉ và học nghề quét bằng chổi gia truyền rất nghiêm túc và thấy được cái hay của nghề quét chổi nên rất hào hứng trong việc đi biểu diễn. Đối với họ, việc quét bằng chổi là việc nghiêm  túc, đáng để tâm học hỏi, nên cho mọi người thấy họ quét hay như thế nào.

Bấy giờ trong kinh thành có hai nữ nhân giỏi nghề xem tướng, một người là con gái một thương nhân, người kia là con một vị tế sư. Hai cô gái ấy đi vui chơi trong vườn thượng uyển, sau khi bảo gia nhân đem theo đủ loại thực phẩm cứng, mềm, vòng hoa hương liệu thì ngẫu nhiên một người đi ra cửa Bắc và một người đi ra cửa Đông. Khi thấy hai thanh niên Candala biểu diễn tay nghề liền cho rằng xui xẻo và đi về.

Nghiệp quả xấu đã xảy ra cho hai chàng trai. Hai cô gái ngẫu nhiên đi chơi đến hai cửa gặp hai chàng quét rác và có cùng phản ứng.

Đám dân chúng la lớn: “Này bọn hạ đẳng tồi tàn kia, chúng bay đã làm chúng ta mất phần cơm rượu đáng lẽ được hưởng miễn phí đấy!”. Mỗi chàng bị một trận nhừ tử. Khi tỉnh lại, họ đi tìm nhau, kể cho nhau nghe tai họa đã đến cho mình ra sao rồi than khóc kêu gào và cố nghĩ cách thoát khỏi tình thế này. Cả hai suy nghĩ: “Tất cả việc khốn nạn này đã giáng xuống chúng ta chỉ vì dòng giống ta sinh ra. Ta sẽ chẳng bao giờ làm kẻ Candala nữa mà ta phải giấu tung tích dòng họ rồi đi tới Takkasila, giả dạng các chàng trai Bà-la-môn và học tập tại đó”. Sau khi quyết định như vậy, cả hai đến Takkasila học với một vị thầy danh tiếng lẫy lừng. Bậc trí nhân Citta học tập thành công nhưng Sambhuta thì không được như thế.

Hai chàng trai có khả năng học tập như vậy, chắc chắn tướng mạo của họ cũng có gì đó đặc biệt. Chuyện cho biết hai nữ nhân đầu câu chuyện rất giỏi xem tướngTuy nhiên, khi họ gặp hai chàng trai đều không thấy được nét đặc biệt trong tướng mạo hai người này. Như vậy, nghiệp  xấu có thể đưa đẩy đến chỗ những ưu điểm của một người bị hoàn cảnh che lấp hoàn toàn. Có thể có người rất giỏi nhưng chẳng ai để ý trong khi một người kém hơn có thể nổi bật hơn. Hai chàng trai thấy được tình thế tuyệt vọng của mình: dù làm công việc tốt đến mấy cũng bị khinh rẻ. Thế là họ tìm cách để đi học. Việc học hành này sẽ tích lũy hành vi tốt cho họ và điều này sẽ ảnh hưởng tới tương lai của họ. Đó là điểm khởi đầu của việc chuyển từ một đời sống khổ sang một đời sống sướng. Câu chuyện kể tiếp.

Một ngày kia có người dân làng mời vị thầy ấy với ý định cúng dường thực phẩm cho các Bà-la-môn. Bấy giờ do ngẫu nhiên mưa suốt đêm làm ngập lụt mọi hang hốc trên đường đi. Sáng sớm hôm sau, vị thầy gọi nhà hiền trí Citta vào và bảo học trò thay mình dẫn các thanh niên Bà-la-môn đi đến làng nọ. Khi đến nơi, dân làng dọn món cháo gạo nóng đã chuẩn bị để mời khách quý. Trước khi cháo nguội, các thanh niên Bà-la-môn đã đến ngồi xuống. Dân chúng dâng nước cúng dường và đặt các bát cháo trước mặt họ. Chàng Sambhuta  tưởng cháo nguội nên múc một hớp bỏ vào miệng, song nó nóng bỏng như cục sắt nóng đỏ. Trong lúc đau đớn, chàng quên mất vai trò của mình, liếc qua bậc hiền trí Citta và nói bằng tiếng của dân Candala: “Cháo nóng quá phải chăng?”. Citta cũng quên mất vai trò của mình nên đáp lại cũng bằng ngôn ngữ Candala: “Nhổ ra, nhổ ra mau”. Nghe thế đám thanh niên nhìn nhau bảo: “Loại ngôn ngữ gì thế này?”. Lúc ấy bậc trí Citta vội nói lời chúc lành cho tất cả.

Hai anh đã rất cố gắng học tập, người anh đã trở thành người học trò đứng đầu trong lớp học của vị thầy và được thầy giao các công việc thay cho thầy. Tuy cố gắng như vậy, nghiệp  xấu của hai người tiếp tục xảy ra rất ngẫu nhiên. Trời ngẫu nhiên mưa làm Citta phải thay thầy dẫn các thanh niên đi dự buổi cúng dường. Sambhuta ngẫu nhiên ăn phải cháo nóng. Hai anh em buột  miệng nói bằng  tiếng Candala. Như thế, khi đã trong  hoàn  cảnh khổ, sự cố gắng phấn đấu rất dễ dàng bị hủy hoại.

Khi các nam tử kia về nhà, họ tụ tập bàn luận và phát hiện các câu nói kỳ lạ kia là ngôn ngữ của đẳng cấp Candala. Thế là họ kêu to: “Quân hạ đẳng tồi tàn kia! Các người đã lừa dối cả bọn ta lâu nay”. Rồi họ đánh đập hai vị ấy. Một người tốt bụng xua đuổi họ đi và nói: “Đi ngay! Vết nhục nằm trong huyết thống kia. Phải đi ngay đến đâu đó mà làm ẩn sĩ khổ hạnh”. Hai vị đi vào trong rừng sống đời sống khổ hạnh, sau một thời gian tái sinh làm hai chú nai bên bờ sông Neranjara (Ni-liên-thuyền). Từ lúc sinh ra chúng luôn ở bên nhau. Một ngày kia, sau khi chúng ăn xong, một người thợ săn thấy chúng dưới gốc cây đang ngồi nhai lại, âu yếm vuốt ve nhau rất hạnh phúc, đầu sát đầu, mõm kề mõm, sừng bên sừng. Gã liền phóng lao giết trọn cả hai. Sau khi chết, hai con nai lại tái sanh làm con của chim ưng biển bên bờ Nerbuddha. Cũng tại đó, chúng lớn lên. Sau khi ăn xong lại ôm ấp đầu sát đầu, mỏ sát mỏ. Một kẻ bẫy chim thấy, bắt cả hai mà giết đi.

Nghiệp xấu tiếp tục đeo đuổi hai vị. Người tốt bụng biết cái nghiệp nhục nhã của hai người này đã thấm vào huyết thống của họ trong kiếp đó. Do đó chỉ còn cách tự   điều chỉnh tích cực thì mới thay đổi được. Hai anh em đã thực hiện như vậy, tuy nhiên việc tự điều chỉnh đó cũng chưa đủ làm cho nghiệp của họ thay đổi ngay. Trong hai đời liên tiếp họ tái sinh làm súc vật và bị giết. Như vậy có thể nói là họ bị lâm vào cảnh khổ-khổ-khổ (K-K-K) trong ba đời liên tiếp. Sau khi“khổ ba đời”, các cố gắng làm điều tốt của hai vị bắt đầu có kết quả. Câu chuyện kể tiếp.

Sau đó bậc trí giả Citta tái sinh làm con vị tế sư tại Kosambi, còn Sambhuta  tái sinh làm vương tử của vua Uttarapancala. Ngay từ ngày được đặt tên, các hài nhi đã có khả năng nhớ lại các tiền kiếp của mình. Sambhuta không nhớ hết tất cả các kiếp, cậu chỉ nhớ kiếp thứ tư hoặc kiếp Candala. Citta thì nhớ đủ bốn kiếp theo thứ tự.

Thế là, khi nghiệp xấu cạn dần, cộng với sự cố gắng rất nhiều để tự điều chỉnh bản thân trong cuối kiếp thứ nhất, hai vị bắt đầu có hoàn cảnh sướng. Câu “không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời” bắt đầu ứng nghiệm. Câu chuyện cũng cho biết một chi tiết quan trọng trong đời sống: những đứa trẻ sơ sinh có khi còn nhớ kiếp sống cũ của nó. Có thể trong trường hợp này nhiều đứa trẻ khóc không ngừng vì nhớ tiếc đời sống trước mà không thể nói năng  gì được. Dân gian có một cách chữa trẻ khóc nhiều (mà không có bệnh  tật gì) bằng cách đem ra chùa làm một thủ tục “khoán cho nhà chùa” và đứa trẻ hết khóc. Quay trở lại câu chuyện.

KhCitta được mười sáu tuổi, chàng xuất gia làm ẩn sĩ khổ hạnh ở vùng Tuyết Sơn. Còn bậc trí giả Sambhuta, sau khi phụ vương băng hà, liền được giương chiếc lọng trắng trên đầu và đúng ngày lên ngôi, giữa đông đảo quần thần, ngài làm một bài đạo ca tức vị, rồi rung cảm ngâm lên hai đoạn. Khi quần thần nghe xong, đám cung phi và nhạc công đều ca hát, bảo nhau rằng: “Đây là ca khúc đăng quang của đức chúa thượng của chúng ta”. Dần dà, dân chúng đều hát ca khúc ấy vì đó là thánh đạo ca được đức vua yêu thích.

Với kiếp sống đầu tiên, trong đẳng cấp Candala, Sambhuta học nghề quét chổi nghiêm túc, tốn thời gian, thế nhưng  ngay khi biểu diễn liền bị người ta khinh rẻ, đánh đập. Với sự đáp trả của hoàn cảnh như vậy, thông thường những người trong hoàn cảnh khó khăn dễ có tâm trạng so bì: “Thật là không công bằng, mình cố gắng hơn người kia, có khả năng hơn, mà vẫn không được đánh giá cao” và trở thành kẻ “hận đời” và nản chí. Suy nghĩ không tích cực đó không làm giảm đi sự khó khăn của hoàn cảnh mà nhiều khi còn tạo ra nhiều khó khăn mới.

Khi lọt vào hoàn cảnh sướng, một câu nói đơn giản của mình cũng được mọi người yêu quý truyền tụng. Nhà vua có bài đạo ca được mọi người truyền tụng trong khi ngài chẳng cố gắng sáng tác gì nhiều. Cũng tương tự, người trong hoàn cảnh thuận lợi làm gì cũng thấy được ca ngợihoan nghênh nên cũng có thể nghĩ rằng: “Ồ, mình rất giỏi, làm gì cũng thành công”và tự nghĩ rằng“mình có khả năng làm được mọi việc”. Sự kiêu ngạo này sẽ làm giảm đi nghiệp tốt của bản thân, tăng thêm các hậu quả xấu trong tương lai. Tổng kết lại các phản ứng đúng đắn cần phải có của cá nhân trong hai hoàn cảnh sướng và khổ, dân gian thường nói “thắng không kiêu, bại không nản”.

Bậc trí giả Citta đang an trú tại Tuyết Sơn, tự hỏi không biết hiền đệ Sambhuta của ngài đã được giương chiếc lọng che ấy chưa. Khi nhận thấy việc ấy đã xảy ra, ngài nghĩ: “Ta chẳng bao giờ đủ sức giáo hóa một vị vua trẻ, khi nào em ta đã già rồi ta sẽ đến thăm và khuyên nhủ em ta đi làm ẩn sĩ khổ hạnh”. Suốt năm mươi năm ngài không hề thăm viếng và trong thời gian ấy nhà vua cứ đông con cái lên dần. Về sau nhờ thần lựctrí giả Citta phi hành đến vườn ngự uyển đáp xuống, ngồi trên bảo tọa phong vương như một bức tượng bằng vàng. Vừa lúc ấy có một chàng trai kiếm củi, đang lúc làm việc lại hát khúc đạo ca ấy. Bậc trí giả gọi chàng trai lại gần, dạy cho một khúc hát rồi bảo:  “Khi nào nhà vua hát hai khúc ca của ngài thì ngươi xin hát khúc thứ ba, vua sẽ trọng thưởng cho ngươi”. Chàng trai vâng lời, mặc y phục tề chỉnh rồi vào cung xin gặp nhà vua và xin nhà vua ngâm khúc đạo ca. Nhà vua liền ngâm:

Chóng chầy thiện nghiệp đều mang trái,
K
hông nghiệp gì không có quả sanh,
Chẳng có việc lành nào uổng phí:
S
ambhu ta thấy lớn lên thành,
Hùng cường vĩ đại và như thế
C
ông đức ngài đem đến quả lành.
Chóng chầy thiện nghiệp đều mang trái,
K
hông nghiệp gì không có quả sanh,
Chẳng có việc lành nào uổng phí:
Citta, ai 
biết có vinh quang
Giống 
như phần trẫm tâm hiền hữu
C
ó được an vui lợi lạc chăng?

Nhà vua nhớ được kiếp Candala của mình, thấy được kết quả sự cố gắng làm điều lành của mình đã mang lại kết quả làm vua. Vì thế ngài khẳng định:“Chóng chầy thiện nghiệp đều mang quả”. Một người khi đã ở hoàn cảnh khổ, làm điều tốt nhưng lại gặp toàn cảnh oan trái liền cho rằng “làm điều thiện chưa chắc nhận được điều tốt”. Thực ra, “làm điều tốt” là gieo hạt giống cho tương lai (gần hay xa), và khi gieo hạt giống thì cần phải có thời gian mới trổ quả, trong câu chuyện này là trải qua bốn kiếp sống. Còn “toàn gặp cảnh oan trái” là do hạt giống xấu mà ta đã gieo trong quá khứ, bây giờ trổ quả. Điều này cũng như trước kia ta gieo hạt giống khổ qua, đến khi khổ qua có trái ta bắt đầu gieo giống cây mít. Ta thu hoạch khổ qua ăn thấy đắng liền phàn nàn: gieo giống mít ngọt mà sao ăn toàn khổ qua đắng. Ai cũng biết rằng muốn ăn mít ngọt ta phải đợi cây mít lớn lên rồi trổ quả. Câu chuyện tiếp tục:

Khúc đạo ca vừa chấm dứt, chàng trai liền đáp khúc thứ ba:

Thiện nghiệp chóng chầy đều mang quả, Nghiệp nào mà chẳng quả lai sanh, Không gì vô ích tâu hoàng thượng,

Xin ngắm Citta tại cổng thành, Chẳng khác quân vương tâm vị ấy Đã đem hỷ lạc đến cho mình.

Nhà vua nghe tin rất mừng vì gặp lại hiền giả Citta nên đón tiếp rất trọng thểHiền giả Citta nhắc lại các kiếp quá khứ cho nhà vua nghe:

Giống dòng hạ đẳng bước hai chân, Hạ liệt Chiên-đà nhất thế gian,

Khi nghiệp chín làm phần thưởng quí, Hai ta cùng có một tiền thân.

Tại A-van, bạn trẻ Chiên-đà,

Là cặp nai vàng bến nước xưa, Đôi chú chim ưng bờ Niết-bút, Giờ đây giáo sĩ, đó làm vua.

Nhà vua thấy được việc làm điều thiện mang lại hoàn cảnh tốt. Tuy nhiên, khi đang trong hoàn cảnh tốt thì ta phải làm gì? Hiền giả Citta cho biết:

Đời người ngắn ngủi, chết cùng đường,
Già cả không nơi chốn náu nương,
Này hỡi Panca xin thực hiện
Những gì ta khuyến nhủ Quân vương,
Tránh xa tất cả hành vi ác
Đ
ưđẩy vào đau khổ đoạn trường.

Nhà vua rất hoan hỷ khi nghe bậc Đại nhân khuyến giáo nhưng ngài bảo:

Lời kia Tôn giả quả toàn chân Ngài dạy như lời đại Thánh nhân, Song dục tham ta đều khó bỏ, Với người như trẫm chúng vô cùng.

Trong hoàn  cảnh  sung  sướng  thì khó bỏ các ham muốn để tự điều chỉnh bản thân. Điều này sẽ dẫn đến hoàn cảnh khổ trong tương lai. Ngài Citta thấy rõ điều này hơn nhà vua. Ngài khuyên nhủ:

Ngài không thể bỏ hỡi quân vương, Các dục tham đây cũng thế thường, Vậy chớ bắt dân nhiều thuế nặng, Trị sao cho chúng thấy công bằng.

Gửi sứ thần đi khắp bốn phương, Mời người khổ hạnh, Bà-la-môn, Cúng dường thực phẩm nhà an nghỉ, Xiêm áo và luôn mọi thứ cần.

Đem thức uống ăn để đãi đằng Bà-la-môn, thánh giảhiền nhân, Tâm đầy thành tín, ai ban phát, Và trị dân tài đức hết lòng,

Người ấy sẽ đi lên thượng giớiLỗi lầm không có, lúc vong thân.

Song nếu vây quanh bởi má hồngDục tham, ngài thấy, quá say nồng, Trong tâm hãy nhớ vần thi kệ,

Và hát hò lên giữa đám đông:

“Dưới trời không mái để che thân
Bầy 
chó xưa cùng nó ngủ lăn
Mẹ 
nó cho ăn lúc bước vội
Mà 
nay thành một vị quân vương”.

Ngài Citta đã thấy con đường thoái hóa từ sướng tới khổ. Do đó, ngài khuyên nhủ nhà vua làm các việc tốt, nếu không sẽ lại gặp cảnh khổ như ba kiếp trước. Sau đó ngài bảo:

Ta đã khuyên nhủ Đại vương rồi. Bây giờ Đại vương có muốn làm người tu khổ hạnh hay không là tùy ý Đại vương, song ta sẽ theo đúng nghiệp quả của chính ta làm”. Sau đó ngài giã từ nhà vua trong dáng điệu phi thường rồi bay về núi Tuyết. Nhà vua rất xúc động nên từ bỏ ngai vàng đi vào núi Tuyết. Bậc Đại nhân Citta dạy cho nhà vua thiền định. Cả hai về sau đều cùng sanh lên cõi Phạm Thiên.

Sau khi chấm dứt pháp thoại, bậc Đạo sư bảo: “Như vậy, này các Tỷ-kheo, các bậc trí nhân ngày xưa giữ vững tình bằng hữu lâu dài qua ba bốn kiếp sống”. Rồi Ngài nhận diện tiền thân: “Vào thời ấy, Ananda là trí giả Sambhuta và Ta chính là trí giả Citta vậy”. 


Tấn Nghĩa (Văn Hóa Phật Giáo số 210)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12644)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12258)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11035)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10915)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13371)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11789)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13670)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11911)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11176)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12200)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12408)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20602)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12429)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12458)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11717)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11598)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22427)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13579)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29678)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11545)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16747)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12002)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16844)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12080)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17928)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12644)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13174)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14766)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22628)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10589)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14049)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13870)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13719)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13868)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13942)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14839)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13856)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18420)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22807)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15400)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17328)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22418)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14265)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12588)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11172)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17772)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13215)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13110)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18800)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17183)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13506)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12923)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14702)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14660)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15881)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13518)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27440)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13242)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16733)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21397)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant