Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

06 Ngày thứ ba. Buổi thứ hai.

10 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10090)
06 Ngày thứ ba. Buổi thứ hai.

TRỊ TÂM SÂN HẬN
Năng Lực Nhẫn Nhục Theo Quan Điểm Của Phật Tử.
Nguyên bản: "Healing Anger" by His Holiness Dalai Lama
Dịch giả: Thích Hằng Đạt

Ngày thứ ba. Buổi thứ hai.

76. Nếu có ai cảm thấy vui vẻ nhờ tán thán (kẻ thù của tôi) như người giỏi nhất, thì tại sao (tâm) ngươi không lại tán thán kẻ đó để được hoan hỷ?

Đã biết cách tránh phản ứng tiêu cực về sự tổn hại trực tiếp đến cá nhân, bạn bè, thân quyến, hiện tại ngài Tịch Thiên bàn về việc tránh nóng giận khi nghe ai đó tán thán người bị gọi là 'Kẻ thù' đáng ghét. Thông thường, chúng taxu hướng tức giận và chán ghét nghe lời đó. Vì vậy, ngài Tịch Thiên dạy rằng chớ có thái độ như thế. Tức giận khi nghe người khác khen ngợi kẻ thù của mình vốn hoàn toàn vô lý, vì nếu xem xét kỹ càng, khi ai đó khen ngợi người mình ghét, thì ít nhất trong tâm của họ có sự hài lòng về kẻ đó; phải hoan hỷ về việc này vì kẻ thù (của mình) đã khiến cho những người khác được hoan hỷ, vui vẻ, và hài lòng. Nếu có khả năng, chúng ta cũng nên tùy hỷ tán thán thay vì cố tình ngăn cản điều đó; đó là vai trò quan trọng của niềm hoan hỷ. Những ai giải quyết vấn đề như thế sẽ bớt tâm ganh ghét, sẽ thật sự hạnh phúc, sẽ dễ được kết thân, và sẽ giúp người khác thay đổi thái độ đối với mình.

77. Đức Thế Tôn không răn cấm niềm hoan hỷ đó, vì nó là nguồn sống của hạnh phúc và là phương pháp nhiếp thọ người khác hay nhất.

78. Kẻ thù có vui nhờ được tán thán. Nếu không muốn (họ có được) niềm vui này, thì phải ngưng trả lương cho (công nhân của quý vị), nhưng nào tránh được quả báo xấu trong hiện tại và tương lai.

Nơi đây, ngài Tịch Thiên dự đoán thêm lời biện hộ rằng ai đó sẽ nói: 'Khi thấy kẻ thù được vui vì được khen ngợi, dĩ nhiên tôi phải bất bình chán ghét lời khen đó'.

Ngài Tịch Thiên bảo rằng nếu lời lẽ đó là nền tảng của sự tức giận, thì điều này có nghĩa rằng những gì trái ý vốn là sự vui vẻ của người khác. Nếu như thế, tại sao chúng ta lại làm lụng cực nhọc để khiến người thân được vui?

79. Khi có ai bàn về phẩm hạnh của tôi, tôi cũng muốn họ được hạnh phúc. Ngược lại, khi họ nói về phẩm hạnh của kẻ khác, tôi không muốn họ được vui.

80. Đã phát tâm Bồ Đề rằng nguyện cho tất cả chúng sanh được hạnh phúc, thì tại sao tôi lại nóng giận nếu tự họ tìm thấy nguồn hạnh phúc?

Trong hai bài kệ trên, ngài Tịch Thiên giải thích những điểm mâu thuẩn nội tại. Ngài ghi nhận rằng khi được ai đó trực tiếp khen ngợi, chúng ta không những cảm thấy sung sướng mà còn mong muốn họ được như thế. Tuy nhiên, lúc nghe họ tán thán kẻ khác, thái độ của chúng ta đối với họ hoàn toàn mâu thuẩn: Không muốn họ được vui. Kết quả, chúng ta đánh mất niềm vui và sự an lạc nội tại.

Đặc biệt, là hành giả Bồ Tát đã phát tâm hy sinh cuộc đời để mang lại niềm vui cho chúng sanh và hướng dẫn họ đạt đến cảnh giới hạnh phúc cứu cánh, mà còn ganh ghét niềm vui của họ thì hoàn toàn sai trái. Thật vậy, phải tri ơn họ nếu họ tự tìm lấy đôi chút hạnh phúc mà không dựa vào sự hỗ trợ của chúng ta.

81. Nếu nguyện cho tất cả chúng sanh mau chóng thành Phật và được tôn sùng khắp ba cõi, thì tại sao tôi lại buồn bã khi thấy họ được cung kính?

82. Lẽ ra tôi phải lo lắng chu cấp cho thân bằng quyến thuộc, nhưng họ tự có khả năng tìm nghề nghiệp sinh sống, thì có phải đó là điều đáng vui mừng chứ đâu đáng buồn phiền?

Ngài Tịch Thiên tiếp tục nói ra rằng hành giả Bồ Tát đã phát nguyện cứu độ tất cả chúng sanh đến quả vị Phật tối thượng đáng được chúng sanh trong ba cõi tôn kính. Nếu như thế, làm sao hành giả đó lại tự dằn vặt khi biết người khác được thành công, hạnh phúc? Kế đến, Ngài đưa ra một ví dụ rằng giả sử chúng tatrách nhiệm lo lắng về mặt vật chất cho người nào đó, nhưng họ lại có khả năng sinh sống bằng nghề nghiệp, thì điều này giúp giảm bớt gánh nặng của chúng ta. Vì vậy, trong hoàn cảnh đó, chúng ta phải cảm thấy tri ơn và vui mừng rằng họ có khả năng tự lập làm việc sinh sống. Cũng vậy, đối với hành giả đã phát tâm Bồ Đề (thường phát nguyện hành trì hạnh lợi tha), phải nhớ rằng khi nói 'tất cả chúng sanh' nghĩa là tất cả mọi người bao gồm kẻ oán người thân.

83. Nếu tôi không mong muốn họ được những điều như thế, thì làm sao tôi lại nguyện cho họ được chóng giác ngộ thành Phật? Tâm Bồ Đề ở đâu khi nóng giận vì thấy người khác thọ nhận vật dụng?

Trong bài kệ này, ngài Tịch Thiên hỏi: 'Nếu tôi không thể chịu đựng việc người khác được thành tựu vật chấtsung sướng, thì sao lại tuyên bố rằng tôi nguyện cho họ mau chóng thành Phật?' Đây là đạo đức giả, vì chẳng có cách nào phát được tâm Bồ Đề nếu suy nghĩ như thế.

84. Nếu (kẻ thù) được cho hay không thì có gì chướng ngại? Dù họ có được vật đó hay nó vẫn còn nằm trong nhà của tín thí, thì trong cả hai trường hợp, tôi cũng không được gì cả.

Nơi đây, ngài Tịch Thiên ghi nhận rằng khi kẻ thù (của mình) được vài sự lợi lạc về vật chất (do tín thí bố thí cho), thì thật vô lý nếu chúng ta ganh ghét khó chịu. Dù kẻ thù không thọ nhận vật đó từ tín thí của họ, thì nào liên quan đến vấn đềchúng ta lo lắng! Nếu họ không thọ nhận vật đó vì vẫn còn nằm trong nhà của tín thí, thì chúng ta cũng không được ban cho vật đó.

85. Do sân hận mà tôi đánh mất phẩm hạnh, công đức, và niềm tin (mà người khác dành cho tôi). Hãy nói thử xem, tại sao không tức giận (với chính mình) vì không tạo nhân duyên lành để được lợi lạc?

86. Còn nói chi đến việc sám hối nghiệp xấu (mà tâm niệm) đã tạo. (Này tâm niệm) ! Tại sao ngươi muốn tranh hơn thua với những người đã từng tạo bao công đức lành?

Thật ra, ước nguyện chân thật của chúng ta là được thành tựu đầy đủ vật chất; vừa sai trái và vừa tự hủy hoại nhân lành (trong tương lai sẽ dẫn đến việc thành côngthế gian), nếu ganh ghét về sự thành tựu đó của người khác. Nếu thật sự ước muốn được thành tựu vật chất, chúng ta phải tức giận chính mình, kẻ ganh tỵ về sự thành tựu của người khác.

Hơn nữa, ngài Tịch Thiên dạy rằng khi thấy kẻ thù được thành công vật chất, và được người khác khen ngợi, thay vì ganh tỵ, chua cay, tức giận về việc đó, nếu chúng ta vui mừng về sự thành công của họ, thì có thể sẽ chia xẻ được sự thành tựu đó. Lại nữa, Ngài dạy rằng lúc ganh ghét và tức giận về sự thành công đó, ngoài việc tranh hơn thua với quả báo lành của người khác, chúng ta không thể phát tâm sám hối nghiệp xấu đã tạo trong quá khứ.

87. Nếu kẻ thù bị đau buồn, thì quý vị được vui sướng điều gì? Chỉ có sự mong muốn (họ bị hại) không thể khiến họ bị tổn hại.

88. Nếu họ bị đau khổ như quý vị đã mong muốn, thì quý vị được vui sướng gì? Nếu bảo rằng: 'Nhờ vậy mà tôi được hài lòng', thì còn gì đáng khinh bằng?

89. Đã cắn cần câu bén nhọn của ngư phủ phiền não, thì chắc chắn tôi sẽ bị ngục tốt thiêu đốt trong hỏa ngục.

Trong bài kệ đầu, ngài Tịch Thiên hỏi rằng dù có hành động khiến cho kẻ thù bị đau buồn, thì có điều gì đáng cho chúng ta vui mừng? Chỉ việc mong muốn hãm hại hay cầu mong kẻ thù gặp việc bất trắc, thì không thể hại họ được? Giả sử kẻ thù gặp rắc rối, bất trắc như chúng ta mong muốn, thì chúng ta vui mừng được điều gì? Nếu bảo rằng: 'Vâng, trong trường hợp đó tôi cảm thấy rất hài lòng', thì ngài Tịch Thiên dạy: 'Còn điều gì đáng khinh bằng?'

Ngài kết luận rằng sân hận như cần câu của ngư phủ, nên phải thận trọng tránh bị nó móc.

90. Lời tán dươngdanh vọng sẽ không chuyển thành công đức hay mạng sống; chúng không giúp sức thoát khỏi bịnh tật, và không ban cho niềm hạnh phúc chân thật.

91. Sẽ tìm được giá trị trong những gì có ý nghĩa. Nếu chỉ muốn thỏa mãn (đôi chút), thì thà lao mình vào cờ bạc rượu chè, v.v...

Trong hai bài kệ trên, ngài Tịch Thiên nhấn mạnh rằng chúng ta chớ quá bận tâm đến thanh danh hay những lời lẽ (tốt hay xấu) của người khác, vì thật ra, chúng khó lòng thay đổi được cuộc đời. Do đó, phải lo những việc ưu tiên hàng đầu và tầm cầu những gì có giá trịý nghĩa chân thật trong cuộc sống, chứ chẳng phải chỉ có danh vọng trống rỗng. Có thể đáp lại lời này qua câu: 'Lời này không đúng, vì khi hưởng danh vọng và được người khác khen ngợi, tôi rất hài lòng'. Nơi đó chỉ có sự thỏa mãn tạm thời. Nếu đó là mục đích duy nhất, thì (như ngài Tịch Thiên đã bàn) dựa vào đó cũng có thể biện hộ thói quen rượu chè, hút sách, vì chúng cũng cho niềm vui tạm thời.

92. Nếu vì danh vọng, tôi bố thí tất cả tài sản hay để bị giết, thì chỉ những lời (tán thán danh vọng) ấy sau đó làm được những gì? Một khi tôi đã bị giết, chúng sẽ ban niềm vui cho ai?

Nơi đây, ngài Tịch Thiên giải thích rằng đôi khi có nhiều người hy sinh tài sản, vật chất, rồi cả tánh mạng chỉ vì danh vọng. Xem xét rõ, trong thực tế họ không được lợi ích gì về danh vọng. Cuối cùng, danh vọng chẳng là gì ngoại trừ tiếng vang và lời trống rỗng. Một khi chết đi, còn ai để hưởng lợi ích đó? Mục đích duy nhất của việc tầm cầu danh vọng là để được cảm giác thỏa mãn, mà đã mất mạng rồi thì ai được hưởng! Thế nên, lo lắng tầm cầu danh vọng thực sự ngu muội. Con người thường say sưa về ý niệm danh vọng.

93. Khi tòa lâu đài bằng cát sụp đổ, trẻ con khóc rống; cũng vậy, khi danh dựlời khen bị giảm sút, tâm niệm ngây dại như trẻ thơ.

Trong bài kệ này, ngài Tịch Thiên đưa ra ví dụ: Lúc nô đùa trên bãi biển, rồi xây tòa nhà bằng cát, trẻ con rất xem trọng công trình này; khi tòa nhà đó sụp đổ, chúng khóc la kêu gào. Những ai say mê với danh vọng hành sự cũng như thế.

94. Âm thanh vô tình ngắn ngủi không thể nào nghĩ về việc tán thán tôi. Tuy nhiên, nó là nguồn vui (của tôi) khi nó được người khác thốt ra (lời tán thán thanh danh của tôi).

95. Dù lời tán thán này có trực tiếp đến với tôi hay người nào khác, làm sao tôi được lợi lạc qua sự vui mừng (của người ban lời tán thán đó)? Niềm vui ấy chỉ là của họ, nên tôi sẽ không được một phần nào.

96. Nếu tìm được nguồn vui trong lẽ hạnh phúc của họ, thì có chắc rằng tôi sẽ cảm thấy như thế đối với tất cả người khác hay chăng? Nếu như thế thì tại sao tôi lại buồn bã, khi người khác tự tìm nguồn vui cho họ?

97. Do đó, niềm vui phát sanh từ ý nghĩ: 'Tôi được khen ngợi' không thích đáng, vì đó chỉ là tánh ý trẻ con.

Trong bốn bài kệ trên, ngài Tịch Thiên giải thích rằng nếu quán chiếu nhân duyên khiến chúng ta vui vẻ khi được tán thán, nó không phải là danh vọng. Lại nữa, nó không phải là âm thanh, vì âm thanh có động có tịnh. Âm thanh nào có chủ tâm giúp vui hay ban bố tình thương cho chúng ta. Có thể nghĩ rằng khi ai đó khen ngợi mình, ngay lúc đó, ít nhất trong tâm của họ có cảm giác vui vẻ, hài lòng, thỏa mãn, nên tôi cảm thấy vui lây. Nếu như thế, chỉ họ mới có niềm vui đó, chứ nào liên quan đến niềm hoan hỷ của chúng ta? Vậy thì trong thực tế, làm sao chúng ta dự phần hạnh phúc đó? Nếu đáp rằng điều này chỉ thứ yếu, vì điểm trọng yếu điểm là nhờ lời tán thán chúng ta mà họ được vui. Thế thì tại sao chúng ta lại không cảm thấy như thế khi có người tán thán kẻ thù của mình? Ít ra trong tâm của người khen ngợi kẻ thù của chúng ta cũng có cảm giác hoan hỷ. Vì thế, trong bài kệ thứ chín mươi bảy, Ngài kết luận rằng niềm vui phát sanh từ ý niệm: 'Tôi đang được tán thán', thật không thích đáng, vì đó chỉ là tâm niệm ngây dại.

98. Lời tán thán, v.v... khiến tâm tôi xao xuyến và cũng không giúp tôi tỉnh mộng (về vòng luân hồi); tôi ganh tỵ những ai có phẩm hạnh tốt, để rồi tất cả thiện hạnh thù thắng bị đánh mất.

99. Do đó, phải chăng những ai phá hoại thanh danh của tôi, chính là những ân nhân giúp tôi tránh rơi vào những cõi bất hạnh?

Nơi đây ngài Tịch Thiên nói rằng được khen ngợi thật sự mang lại nhiều quả báo tai hại. Trước hết, được nổi tiếng và được nhiều người tán thán sẽ chướng ngại sự tu hành, vì khi đó, chúng ta rất bận rộn. Ngoài ra, điều này còn khiến suy giảm ý niệm chán chường cõi thế tục, vì lúc đó, đối với chúng ta mọi việc đều dường như mỹ mãn. Kế đến, chúng ta nghĩ về vòng luân hồi trong cõi Ta Bà: 'Ồ ! Sống ở đây nào tệ hại mà lại thật vui', rồi nghĩ sai về khuyết điểm của cõi Ta Bà: 'Ồ ! Có thể điều này do một hành giả bần cùng sống cô độc viết lách. Họ chẳng biết gì về hiện thực của thế gian'. Thế nên, nhận thức sai lầm về bản chất bất như ý của vòng luân hồi là điều rất nguy hiểm. Thứ ba, được nổi tiếng và được ca ngợi có thể khiến chúng ta cảm thấy tự hào, rồi từ từ sanh ngã mạn, vì theo quan điểm thế gian, chúng ta được thành công. Có thể thấy sự ganh tỵ giữa những kẻ ăn xin, nhưng điều đó dường như mạnh mẽ khi được thành tựu; nghĩa là dường như cường độ ganh tỵ tăng trưởng cùng lúc với sự tăng trưởng của thành công.

Do đó, hãy cẩn thận khi được tán thán. Phải quán chiếu thâm sâu vì qua những nhân duyên đó, tiến trình tu đạo có thể bị chuớng ngại.

100. Kẻ tinh tấn tu hành vì đạo giải thoát không thể để danh vọng lợi dưỡng trói buộc. Thế thì tại sao tôi lại tức giận những người cứu tôi thoát khỏi sự trói buộc này?

101. Những ai làm khổ tôi giống như tôi được chư Phật ban phước lành. Họ đã ngăn cản tôi tránh đi đến cõi bất hạnh, thì tại sao tôi lại nóng giận họ?

Nói chung, trong kinh điểndiễn tả cõi của những người lý tưởng; họ có tám đặc tánh giúp cuộc sống được như ý, như được giàu sang phú quý, thành công trên đường đời, v.v... Chúng là những điều kiện thuận lợi; nếu biết dùng theo cách tích cực, thì chúng rất hữu dụng vì có thể hỗ trợ cá nhân tiến bước trên đường đạo và cũng khiến họ làm việc lợi tha hữu hiệu hơn. Tuy nhiên, khi có đầy đủ các điều kiện về tài sản, địa vị, học vấn, v.v... phải có những nhân duyên khắc chế để không bị hủ hóa vì chúng. Lại nữa, chớ bao giờ quên dùng trí huệ quán chiếu bản chất khổ đau của vòng luân hồi, để có thái độ đúng đắn đối với tất cả điều kiện thuận tiện, rồi xử dụng chúng như trợ duyên tu hành và hạnh lợi tha. Phải giữ trung đạo, chớ đi thái quá. Đồng thời, phải có huệ nhãn xem xét cách nào tu đạo hữu hiệu nhất. Nhận thức được những điều đó, thì có thể nhìn những cá nhân cản trở chúng ta tích lũy tài sản vật chất, danh vọng, quyền thế, v.v... không như kẻ thù, mà như những vị hộ pháp giúp chúng ta tránh bị hủ hóa và bị chướng ngại trên bước đường tu đạo.

Thế nên, trong bài kệ 100 và 101, ngài Tịch Thiên nhắc nhở rằng chúng ta chớ bao giờ quên mất mục tiêu cứu cánh: Đắc đạo giải thoát, tức Niết Bàn. Thế nên, chớ để danh vọng lợi dưỡng làm vướng mắc. Chớ tức giận kẻ thù (những người cản trở việc tích lũy vật chất của chúng ta, v.v...) vì họ giúp chúng ta thoát khỏi sự trói buộc. Ngài Tịch Thiên dạy rằng những điều mà họ làm thật giống như sự ban phước lành của chư Phật, vì nhờ đó họ khóa cổng, bảo vệ chúng ta tránh bước vào căn nhà khổ đau dẫn đến phòng luân hồi bất hạnh.

102. Nếu có ai cản trở tôi tích lũy công đức thì sao? Nếu tức giận họ cũng là điều sai lầm; vì không có sự chịu đựng nào bằng hạnh nhẫn nhục, nên chắc chắn tôi sẽ thực hành hạnh đó.

Trong bài kệ này, ngài Tịch Thiên đáp lại sự suy nghĩ rằng nếu kẻ thù hủy hoại công đức của mình, thì đủ để tức giận họ. Tuy nhiên, Ngài trả lời rằng tức giận họ cũng không chánh đáng, vì hay nhất là hành hạnh từ bi để tích lũy công đức và gieo tâm niệm lành. Đó là pháp môn chân thật của Phật pháp. Để hạnh từ bi được thành tựu viên mãn, phải hành hạnh nhẫn nhục. Vì vậy, không có sự chịu đựng nào bằng hạnh nhẫn nhục; không có hạnh nào hay hơn hạnh nhẫn nhục. Chớ tức giận về hành vi của kẻ thù; phải dùng dịp may đó để tăng cường hạnh nhẫn nhục.

103. Nếu vì sự thất bại mà tôi không thể kiên nhẫn với kẻ thù, thì tự tôi cản trở việc gieo nhân lành để gặt công đức.

Nơi đây, bài kệ này bảo rằng dẫu nếu được ban cho cơ hội này và nếu vì sự thất bại mà tôi không thể kiên nhẫn với kẻ thù rồi bất bình, thì tôi tự cản trở mình dùng dịp này để gặt công đức nhờ hành hạnh nhẫn nhục. Thế nên, chính chúng ta hủy diệt nhân lành của hạnh nhẫn nhục.

104. Nếu không nhờ kẻ thù tạo chướng duyên thì tôi không thể hành hạnh nhẫn nhục. Thế thì tại sao tôi hờn trách họ?

Trong bài kệ này, ngài Tịch Thiên tóm lược ý nghĩa của lý nhân quả: Nếu không có nhân thì nào có quả, còn có nhân thì ắt quả theo sau. Hạnh nhẫn nhục (của chúng ta) không thể phát sanh nếu kẻ thù không gieo nghiệp xấu, nên hành vi đó rất cần thiết (để có dịp hành hạnh nhẫn nhục). Tại sao nói ngược lại rằng kẻ thù cản trở chúng ta hành hạnh nhẫn nhục? Thật ra, kẻ thù tạo điều kiện thiết yếu để hành hạnh đó.

105. Lúc hành hạnh bố thí, kẻ ăn xin đâu phải là chướng duyên của hạnh đó. Không thể bảo rằng những ai truyền giới pháp là những vị tạo chướng duyên cho việc thọ giới.

Kế tiếp, ngài Tịch Thiên dùng ví dụ về một kẻ ăn xin, người đáng được bố thí đồ vật. Không th? bảo rằng họ làm chướng duyên cho hạnh bố thí. Cũng vậy, làm sao bảo rằng vị truyền giới sư ban truyền giới pháp là vị tạo chướng duyên cho việc thọ giới?

106. Thật ra, kẻ ăn xin trên thế gian thì rất nhiều, còn kẻ hãm hại tôi thì rất ít; nếu không hãm hại người khác thì họ nào gây rối?

107. Tôi phải vui mừng khi có kẻ thù giúp tôi hành đạo Bồ Đề, ví như trong nhà sẵn có của báu.

Trong hai bài kệ trên, ngài Tịch Thiên thuyết rằng thật ra rất dễ dàng hành hạnh bố thíthế gian có rất nhiều kẻ ăn xin. Ngược lại, rất ít có dịp may để hành hạnh nhẫn nhục, vì kẻ thù gây tổn hại chỉ khi chúng ta khiêu khích họ. Nói chung, sẽ không bị hại nếu tránh gieo nhân xấu. Khi gặp cơ hội đó, phải nhìn nó với niềm tri ơn và vui mừng được kẻ thù ban bố, ví như tìm thấy của báu trong nhà.

108. Nhờ họ mà tôi hành hạnh nhẫn nhục, nên họ đáng hưởng quả lành của hạnh đó trước nhất.

Trong bài kệ này, ngài Tịch Thiên nói rằng việc tu hành thành tựu hạnh nhẫn nhục nhờ biết kết hợp giữa sự tinh tấndịp maykẻ thù ban bố. Vì vậy, phải nhận thức điều đó và hồi hướng quả lành trước nhất của hạnh nhẫn nhục cho kẻ thù được lợi ích.

109. Mặc dù vậy, tại sao kẻ thù lại được cung kính? Họ nào có chủ tâm khiến tôi hành hạnh nhẫn nhục. Thế thì tại sao lại tôn kính thánh pháp? (Thánh pháp đó cũng không có chủ tâm) nhưng lại tạo duyên lành cho việc tu hành.

Nơi đây, ngài Tịch Thiên nhận định rằng chúng ta có thể suy nghĩ: 'Tại sao tôi phải cung kính kẻ thù hay nhìn nhận sự đóng góp của họ? Họ không có chủ tâm giúp đỡ hay ban cho tôi d?p may hành hạnh nhẫn nhục'. Nếu như thế, chúng ta cũng chớ nên tôn kính thánh pháp, tức là một trong ba ngôi Tam Bảo, vì thánh pháp chân thật bàn về Diệt ĐếĐạo Đế; những pháp này không có chủ tâm hỗ trợ, nhưng chúng ta xem chúng như đối tượng đáng tôn kính. Điều quan trọng là kết quả, chứ không phải nhân duyên.

110. Điều chắc chắnkẻ thù không thể được tôn sùng vì họ có chủ tâm hãm hại tôi. Thế thì tại sao lại chịu đựng được sự mỗ xẻ của bác sĩ giải phẩu (với chủ ý tốt)?

111. Thế nên, hạnh nhẫn nhục được phát sanh nhờ vào kẻ thù, nên họ đáng được cung kính như thánh pháp, vì họ làm thắng duyên cho hạnh đó.

Trong hai bài kệ này, ngài Tịch Thiên giải thích rằng chúng ta có thể suy nghĩ: 'Vâng ! Ngài nói rất đúng về pháp Diệt Đế và Đạo Đế, vì những pháp đó tuy không có chủ tâm trợ giúp, nhưng chúng ta lại tôn kính chúng. Ngược lại, kẻ thù chỉ muốn hãm hại chứ nào có chủ tâm hỗ trợ chúng ta. Vì vậy, chắc chắn họ không đáng được tôn kính'.

Ngài Tịch Thiên bảo rằng nhờ kẻ thù có tâm hiểm ác, nên khiến cho hành vi của họ rất thù đặc. Bằng không, nếu hành động gây tổn thươngnghiêm trọng, thì phải xem các bác sĩ như kẻ thù, vì họ (không có chủ tâm hãm hại) cũng thường dùng những phương pháp trị liệu rất đau đớn như mổ xẻ. Vì thế, lẽ ra hành vi chủ tâm hãm hại chúng ta khiến cho kẻ thù thù đặc hơn, vì họ ban dịp may quý báu để hành hạnh nhẫn nhục.

Do đó, trong bài kệ 111, Ngài kết luận rằng nếu tôn kính thánh pháp, chúng ta cũng phải đối xử kẻ thù như đối tượng đáng được tôn kính vì họ làm thắng duyên cho hạnh nhẫn nhục.

Thiền quán.

Hiện tại chúng ta hãy dùng buổi thiền quán để quán chiếu hạnh 'tong-len' (Thủ-Xả). Trước nhất, quán tưởng về chúng sanh đang cầu cứu vì sống trong hoàn cảnh đau khổ bất hạnh. Kế đến, quán tưởng chính mình như hiện thân của kẻ chấp ngã, lạnh lùng với sự khổ đau và những nhu cầu cấp thiết của chúng sanh. Kế tiếp, hãy làm trọng tài đứng giữa xem xét cảm giác tự nhiên hướng về họ: Cảm thấy thương hại chúng sanh yếu đuối cần cứu giúp, hay muốn giữ tâm ích kỷ. Sau đó, hướng tất cả tâm lành tích cực về chúng sanh đang tuyệt vọng cần sự giúp đỡ; quán tưởng ban cho họ sự thành tựu, công đức lành, sinh lực mới, v.v... Kế tiếp, phát nguyện thay họ chịu khổ vì quả xấu.

Điển hình, chúng ta có thể quán tưởng một em bé ngây thơ đang bị đói khát ở nước Somalia, rồi xem xét phản ứng tự nhiên của mình về thảm trạng đó ra sao. Nơi đây, lòng từ bi sâu xa về nỗi khổ đau của chúng sanh đó không dựa vào tâm niệm: 'Ông ta là thân quyến của tôi. Bà ta là bạn của tôi'. Quý vị cũng chưa từng biết người đó; vì thật ra họ vốn là con người và quý vị cũng là con người, nên lòng từ bi tự nhiên cho phép quý vị ra tay cứu giúp. Hãy quán tưởng như thế, rồi nghĩ rằng đứa bé đó không có khả năng thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn trong hiện tại. Kế tiếp, tưởng tượng tự thọ nhận tất cả sự khổ đau như đói khát, nghèo cùng, v.v... Tưởng tượng ban cho đứa bé tiện nghi vật chất, sự thành công, v.v... của mình. Tu tập tâm niệm qua hạnh thủ và xả như thế. Khi quán tưởng sự tự thọ nhận, điều hữu ích là nên quán tưởng về sự khổ đau, phiền muộn, khó khăn vì chất độc hay vũ khí nguy hiểm (thường khiến lạnh mình khi vừa nhìn thấy chúng). Cũng nên quán tưởng loài vật mà quý vị không thể nào dám nhìn. Quán tưởng chúng như thế, rồi đưa chúng vào tâm. Khi pháp quán đó có hữu hiệu, thì sẽ khiến quý vị cảm thấy khó chịu đôi chút. Đó là dấu hiệu rằng việc quán tưởng ấy đánh trúng vào tiêu điểm của sự chấp ngãchúng ta thường có. Tuy nhiên, đối với những ai có vấn đề với bản ngã của chính mình như tự hận và có ít niềm tự tín, thì phải xem xét coi cách hành trì đặc biệt này có thích hợp hay không.

Hỏi: Ngài Tịch Thiên viết quyển luận này để khuyến phát tâm Bồ Đề và hành hạnh Bồ Tát (là một trong những luận giải thanh tịnh). Chúng ta phải tu học theo ở khía cạnh nào?

Đáp: Đạo Phật có bàn đến ba giai đoạn nhận thức. Trước nhất, nghe (Văn) là giai đoạn sơ khởi mà quý vị phải đọc hay nghe để mang lại sự hiểu biết. Thứ hai, sau khi đọc hoặc lắng nghe, hãy suy nghĩ (Tư) về vấn đề đó; nhờ có kinh nghiệm thường làm quen và suy nghĩ, sự hiểu biết được tinh thông hơn. Thứ ba, 'phát trí huệ nhờ thiền quán', nghĩa là vừa thẩm thấu chủ đề và vừa có kinh nghiệm thiền quán khiến phát triển trí huệ. Thế nên, có sự hài hòa giữa trí huệkinh nghiệm thật chứng.

Lúc đầu, có thể thấy sự khác biệt giữa năng tri và sở tri (người nhận biết và đối tượng bị nhận biết). Tuy nhiên, ở giai đoạn phát huệ thì không có năng quán và sở quán (người quán chiếu và đối tượng được quán chiếu). Có vài trường hợp đặc biệtcá nhân không cần thể nghiệm điều này. Nói chung, đa số thiền sinh cần tỉnh giác, tinh tấn đạt đến cảnh giới bất nhị, chứ nó không tự nhiên đến. Ngoài ra, nhờ thể nghiệm lý bất nhịtự nhiên không thấy sự khác biệt giữa tâm và cảnh.

Nói chung, phiền não cũng như thế; dù tự nhiên đến, nhưng khi chúng trực tiếp hướng về đối tượng đặc biệt, như lúc sân hận người nào đó, và nếu chúng ta không chú ý đến chúng, thì có lẽ chúng ít bộc phát. Ngược lại, liên tiếp nghĩ về sự bất công và cách thức bị đối xử bất công sẽ nuôi dưỡngkích thích sân hận tăng trưởng m?nh mẽ. Cũng vậy, liên tục nghĩ về vẻ đẹp và phẩm hạnh của một cá nhân đặc biệt sẽ trưởng dưỡngkích thích phát khởi sự đắm trước mãnh liệt. Điều này chứng minh rằng càng huân tập vọng niệm thì phiền não càng mạnh mẽ.

Như đã bàn, vào lúc đầu, nhờ đọc t?ng và lắng nghe mà phát huệ. Nhờ chuyên tâm quán chiếuđề mục được sáng tỏ hơn. Chữ Tây Tạng 'nyams'og tu chud pa' nghĩa là đã thẩm thấu đề mục. Nhờ liên tục làm quen, nên nó không còn xa lạ, và sẽ có chánh kiến. Danh từ chuyên môn diễn đạt nó: 'Sự chứng nghiệm tùy thuộc vào sự tinh tấn'; nghĩa là cần tinh tấn hành trì mới tỏ ngộ. Nói chung, nhờ tinh tấn làm quen với đề mục, nên giống như bản chất tự nhiên từ từ nó sẽ rõ ràng hơn mà không cần suy gẫm hay quán chiếu. Ví dụ, trước kia có thể cần phải thường suy luận, quán chiếu, v.v... về lòng từ bi, nhưng sau này, vừa thấy chúng sanh đau khổ, quý vị sẽ tự nhiên phát khởi lòng từ bi chân thật. Cảnh giới đó được gọi là 'Sự chứng nghiệm Vô Dụng Công'.

Từ giai đoạn này đến giai đoạn kế hẳn có sự tiến bộ. Chớ nghĩ rằng sự chứng ngộtrí huệ đi khác hướng và không quan hệ với nhau. Thật ra, một khi phát triển và đạt được bất cứ sự chứng ngộ hay trí huệ qua sự nhận thứchuân tập, thì chúng rất kiên cố dài lâu. Điển hình, trong khoảnh khắc có thể liễu ngộ đôi điều rất mãnh liệt, nhưng nếu thiếu trí huệ, nó sẽ không bền vững. Sau vài ngày, khi nó bị phai dần, quý vị sẽ trở lại với tập khí chấp ngã bình thường mà không thấy có sự chuyển hóa tâm linh lớn lao. Thế nên, không thể tin cậy vào nó.

Tôi thiết nghĩ có sự khác biệt giữa những cảnh giới chứng ngộ. Tuy nhiên, qua kinh nghiệm cá nhân, đối với tâm Bồ Đề, đôi khi chúng chỉ là lời nói. Dĩ nhiên, tôi hiểu những lời đó theo trình độ ngôn ngữ, nhưng trong đó không có cảm xúc gì. Cũng vậy, dĩ nhiên tôi có thể giải thích đôi chút về nghĩa của tánh Không (Shunyata), nhưng không có nhiều cảm xúc về lý đó. Cuối cùng, nhờ quán chiếu qua năm này tháng nọ, chúng không chỉ là ngôn từ, mà mang ý nghĩa sâu sắc hơn.

Hỏi: Cuộc sống hằng ngày của người mẹ lo việc nội trợ đôi lúc được rãnh rỗi. Hoàn cảnh chung quanh hoàn toàn theo thế tục, không thuận cũng như không nghịch với việc tu đạo. Tôi bị kẹt vì được gợi ý phải chấp nhận hoàn cảnh tu hành như thế, nhưng tôi muốn có sự thay đổi tích cựctinh tấn phát triển tâm Bồ Đề cùng trí huệ. Xin Ngài dạy cho những kẻ sơ cơ biết cách định đặt những ưu tiên hàng đầu về việc hành trì với các điều kiện đó?

Đáp: Ngay cả trường hợp cá nhân, nếu muốn tôi có thể than phiền thiếu thời giờ, vì rất bận rộn. Tuy nhiên, nếu cố gắng tinh tấn, quý vị luôn tìm được thời giờ rảnh rang đôi chút vào buổi sáng sớm hay cuối tuần, nhưng nên hy sinh vài thú vui cá nhân. Nếu cố gắng tinh tấn đúng mức, có thể tìm được ba mươi phút vào buổi sáng và buổi chiều tối. Có cách tính toán để tìm đuợc đôi chút thời giờ. Tuy vậy, trước hết phải có sự hiểu biết tổng quát về cách hành trì căn bản của Phật giáo.

Nếu suy nghĩ nghiêm túc và nếu hiểu việc tu đạo theo ý nghĩa chân thật, thì chúng ta nên hiểu Phật pháp trong phạm trù cảnh giới tâm linh, tức là trạng thái tâm lý. Chớ giới hạn việc hiểu biết về Phật pháp chỉ trong những hoạt động của thân và khẩu như lễ bái tụng niệm. Nếu như thế, dĩ nhiên cần định đặt thời gian hành trì hẳn hoi, vì không thể vừa làm những công việc hằng ngày như nấu nướng, quét dọn, v.v... mà vừa tụng chú, rồi lại làm phiền muộn những người xung quanh. Tóm lại, đã hiểu Phật pháp theo nghĩa lý chân chánh, thì nên biết rằng mọi hoạt động đều liên hệ đến sự lợi ích của tâm niệm. Do đó, có thể tu hành suốt hai mươi bốn giờ trong một ngày.

Ví dụ, nếu thấy mình sắp mắng chửi người khác, lập tức phải thận trọngkiềm chế tránh làm việc đó. Cũng vậy, nếu gặp hoàn cảnh sắp mất bình tỉnh, nên tỉnh giác tự nhủ: 'Không được! Không thể làm được'. Nhìn sự hành trì Phật pháp chân thật như thế thì sẽ luôn có thời gian tu hành.

Tương tự, lúc thiền quán về bản chất giả tạm vô thường của các pháp, chung quanh sẽ có rất nhiều ví dụ điển hình nhắc nhở mình về sự thật đó. Tuy nhiên, điều quan trọng là trước hết phải tu học, vì nếu khôngtrí huệ thì khó lòng hành trì.

Hỏi: Xin Ngài dạy vài điều cho người thân của con đang hằn học nói xấu kẻ thứ ba? Một bên, con muốn chia xẻ nỗi khổ tâm với người thân. Một bên, con không muốn tán đồng sự hằn học đó. Vậy thì phải nói như thế nào?

Đáp: Tôi sẽ kể một câu chuyện. Lần nọ có vị đại sư phái Ca Đương (Kadampa) là Cẩn Ba Ngõa (Gampowa) than phiền với ngài Chủng Đôn Ba (Dromtonpa, vị khai sáng phái Ca Đương) rằng thật khó có thời gian rảnh rang để hành trì vì mang rất nhiều trách nhiệm. Ngài Chủng Đôn Ba đồng ý đáp:

- Vâng ! Điều này rất đúng. Tôi cũng không được rảnh rỗi.

Từ đó, hai vị có duyên lành với nhau. Ngài Chủng Đôn Ba lại thiện xảo bảo:

- Tuy nhiên, ông nên biết những gì tôi đang làm đều là việc Phật sự. Tôi cảm thấy rất hài lòng.

Cũng vậy, nếu nhận thấy người thân đang hằn học nói xấu kẻ khác, có thể quý vị phản ứng lập tức với sự đồng tình thương hại. Kế đến, khi đã tin lẫn nhau, quý vị có thể bảo: 'Nhưng...'

Hỏi: Trong ngày lịch sử ký kết hiệp ước hòa bình giữa người Do Thái và Palextin xin Ngài phát biểu ý kiến về sự kiện trọng đại này và ban phúc lành cho nền hòa bình ở Trung Đông được tiếp diễnvấn đề khó khăn mới vừa bắt đầu được giải quyết.

Đáp: Như đã đàm luận trong buổi sáng hôm nay, tôi đã bình luận việc này như một sự kiện đáng tán dương. Quý vị có thể hài lòng khi biết rằng tôi đã viết thơ cho thủ tướng Rabin (của Do Thái) và chủ tịch Yasser Arafat (PLO của Palextin).

Hỏi: Xin Ngài giải thích chi tiết về phương tiện thiện xảo.

Đáp: Điều đó rất khó, vì tùy theo pháp môn mà có nhiều cách khác nhau. Tương đối dễ dàng hiểu được vài ý nghĩa về mặt trí huệ. Ngược lại, thật khó hiểu phương tiện thiện xảo vì điều này rất đa dạng và phức tạp.

Nói chung, có thể định nghĩa phương tiện thiện xảo là những cách thức tu tập giả lập tạm thời như pháp môn thiền quán hay các pháp môn khác. Hữu vi đi đôi với hình tướng, còn vô vi đi đôi với tánh Không của muôn pháp. Về mặt trí huệ, nhờ thiền quán thâm sâu nên liễu ngộ tánh Không, tức bản chất rốt ráo của hiện thực. Những gì liên hệ chủ yếu với khía cạnh hữu vi giả tạm của hiện thực có thể được định nghĩa khái quát như phương tiện thiện xảo.

Nói chung, nhiều phương tiện thiện xảo như lòng từ bi, v.v... không phải là tri kiếnliên hệ mật thiết với tâm linh. Ngược lại, trí huệthành phần tri kiến liên hệ với sự hiểu biết. Tuy nhiên, thật khó lòng giải thích chi tiết về phương tiện thiện xảo.

Hỏi: Một trong những giới luật Bồ Tát dạy rằng phải hỷ xả cho người đã sám hối. Đối với việc hỷ xả cho người không sám hối thì như thế nào? Có nên muốn kẻ gây lỗi với mình xin sám hối chăng? Tâm hỷ xả và nhẫn nhục quan hệ như thế nào?

Đáp: Nếu không hỷ xả cho kẻ sám hối, quý vị sẽ gây thương tổn cho người đó. Họ sẽ nghĩ: 'Ồ! Họ vẫn chưa hỷ xả cho mình'. Do đó, phải nên hỷ xả cho họ để giúp họ tránh cảm giác bị tổn thương. Nếu đã gây lỗi với mình mà họ lại không sám hối, thì việc yêu cầu họ làm điều đó thật vô ý nghĩa, vì quý vị cầu khẩn họ sám hối. Thật ra, điều này sẽ khiến họ cảm thấy khó chịu hơn.

Hỏi: Tôi có vấn đề khó khăn trong việc tin tưởng thuyết tái sanh. Có cách nào hay nhất giúp tôi tin tưởng điều đó?

Đáp: Điều này thật rất dễ hiểu đối với người Tây Tạng, vì chúng tôiniềm tin mãnh liệt vào sự tái sanh. Tuy nhiên, nếu cẩn thậnchân thành xem xét về nội dung của niềm tin, thì đôi khi điều này trở thành vấn đề rắc rối vì không giống như niềm tin về những vật thể cứng rắn chung quanh mà chúng ta có thể cảm nhận qua bằng chứng cụ thể về sự hiện hữu của chúng; những vấn đề như tái sanh thật rất khó có sự tin tưởng kiên cố.

Tuy vậy, ngay cả giữa những người rất đỗi nghi ngờ về thuyết tái sanh hay cố tình từ chối sự hiện hữu của thuyết đó, nếu quý vị hỏi họ tại sao chối bỏ hay ngờ vực cùng cực về điều đó, thì họ sẽ đáp: 'Tôi chỉ cảm thấy không thể tin vào việc đó'.

Nói chung, có hai luồng triết học chủ yếu: Một bên, đồng ý tin tưởng về việc tái sanh. Một bên, không đồng ý tin tưởng về thuyết tái sanh hay thật tình chối bỏ sự hiện hữu của điều đó. Tuy vậy, trong thực tế, nếu xem xét về việc này, không phải nhóm thứ hai tìm thấy bằng chứng trái ngược với sự hiện hữu của việc tái sanh, mà họ chưa tìm được bằng chứng gì để xác định và tin tưởng sự hiện hữu đó. Vì vậy, phải phân biệt giữa việc chưa tìm ra và đã tìm ra bằng chứng để bài bác điều đó, vì chúng là hai điều khác nhau.

Nơi đây, cần phải hiểu rằng làm sao dùng bằng cớ để chứng minh hay phủ nhận điều gì. Chúng ta cũng phải hiểu mục tiêu của loại lý lẽ đặc thù nào đó. Ví dụ, có những lý lẽ thuyết rằng nếu pháp nào đó hiện hữu thì chúng ta sẽ có thể tìm ra nó nhờ một vài cách suy luận. Nếu pháp nào thuộc về loại đó, thì nên suy luận về nó. Nếu không thể tìm ra nó, quý vị có thể dùng điều đó để làm bằng chứng cho việc pháp đó không hiện hữu, vì nếu nó có hiện hữu, quý vị sẽ có khả năng tìm ra qua những phương pháp đó. Ngoài ra, có những pháp khác có thể không nằm trong phạm trù lý luận.

Hiện tại, đối với vấn đề tái sanh, phải hiểu điều này dựa vào dòng chuyển biến liên tục của tâm thức. Quý vị không thể tìm được nếu căn bản chỉ dựa vào dòng hiện hữu liên tục của thân thể, chứ chưa nói chi đến những gì xảy ra cho tâm thức sau khi chết. Ngay cả khi còn sống, thật rất khó khăn trong việc nhận diện rõ ràng bản chất tâm thức là gì, sự liên hệ giữa tâm thứcthân thể như thế nào, và có hay không có sự vật đặc biệt mà không phải là vật chất và được gọi là 'tâm thức'. Hoặc giả, có phải tâm thức chỉ là ảo tưởng? Đây là phạm vi rất rắc rối vì nơi đó không có đáp án rõ ràng chính xác theo phương pháp suy luận khoa học.

Mặt khác, ngay cả trong hiện tại, chúng ta cũng tìm được những cá nhân đặc biệt; họ có khả năng nhớ lại những kinh nghiệm trong các đời quá khứ. Chúng ta cũng nhận thấy rằng qua việc thiền quán, thiền sinh có những kinh nghiệm rất huyền bí.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11483)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
(Xem: 12653)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12267)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11049)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10921)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13375)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11797)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13679)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11917)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11185)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12214)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12415)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20609)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12442)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12468)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11731)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11605)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22445)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13587)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29711)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11553)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16767)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12019)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16858)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12085)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17939)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12656)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13185)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14775)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22644)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10596)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14068)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13882)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13734)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13881)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13952)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14843)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13867)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18429)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22816)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15409)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17337)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22426)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14278)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12596)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11181)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17778)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13221)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13117)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18812)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17196)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13533)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12932)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14710)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14668)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15887)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13530)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27451)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13257)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16739)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant