Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

III. Trung Đạo - Một chìa khóa của Phát minh

12 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9478)
III. Trung Đạo - Một chìa khóa của Phát minh

ỨNG DỤNG CÁC NGUYÊN LÝ PHẬT GIÁO
VÀO NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN TRONG KHOA HỌC
Bài II
Làng Đậu

III. Trung Đạo -- Một chìa khóa của Phát minh

Tùy theo các trường phái khác nhau trong Phật giáo, thì khái niệm Trung đạo có thể được hiểu một cách có khác nhau về chi tiết. Ta có thể hiểu về Trung đạo một cách nôm na qua hình ảnh của việc lên dây đàn. "Sợi dây đàn chùng quá hay căng quá cũng không tạo được một âm thanh trong trẻo". Đứng về mặt ý thì Trung đạo là việc phủ nhận các cực đoan cố chấp vào sự tồn tại hay không tồn tại của sự vật. Việc cố chấp này nảy sinh là do thiếu hiểu biết chính xác về bản chất duyên khởi chóng vánh của sự vật (thông thường các ý tưởng cảm nhận qua các tri giác thông thường về thế giới khiến ta dể nhìn nhận sự vật tồn tại một cách bản chất hay đôi khi ngược lai phủ nhận sự tồn tại của sự vật chỉ vì dựa trên các quan sát hay lý luận không đầy đủ).

Ở đây ý tưởng "Trung Đạo" trong Phật giáo đã được đức Dalai Lama mô phỏng thành một chính sách đề nghị cho tương lai của Tây Tạng. Đó là việc ngài chủ trương kiến tạo một vùng Tây Tạng tự trị thật sự. Ý kiến này có thể đã nảy sinh từ động lực mong muốn có một sự chung sống hòa bình hạnh phúc cho cộng đồng người Tây Tạng trong khối người Hoa khổng lồ. Chính sách đó không đi theo hướng cực tả đòi hỏi giành lại một tên nước Tây Tạng độc lập mà cũng không chấp nhận xu hướng cực hữu qua việc xóa bỏ nền văn hóa Tây Tạng với bản sắc đặc trưng Phật giáo Kim Cương thừa để trở thành một loại bản sắc Hán tộc 100%. Khối ngựời Hoa rất đông đảo và mạnh mẽ về di sản vật chấtvăn hóa trong khi khối người Tạng nhỏ bé nhưng lại rất sâu sắc, đồng nhất và hài hòa về di sản tinh thầntôn giáo ...Theo phân tích của người viết bài này, sự kết hợp khéo léo không hủy hoại các đặc tính tốt đẹp lẫn nhau của hai khối này sẽ có thể mang lại lợi ích vô cùng lớn lao cho cả hai cộng đồng. Ngoài ra, còn có thể có nhiều phân tích về các khía cạnh lợi ích khác của chính sách Trung đạo nhưng việc bàn thảo về nó sẽ vượt quá đề tài khoa học của bài viết.

Chúng ta hãy trở lại một thí dụ ứng dụng của ý kiến trung đạo. Trong kiến trúc hiện nay của các máy tính cở lớn (các máy chủ -- server) thì bộ lưu trữ (storage) ngày nay có nhiều phẩm chất tiện ích, trong đó, ba điểm nổi bật là kích cỡ rất lớn của bộ lựu trữ, khả năng tái lập dữ liệu (data redundancy) do hỏng hóc và vận tốc xử lý dữ liệu cao. 3 đặc tính này có được, ngoài khả năng tính toán cực nhanh của CPU, là còn phải nhờ vào nhiều yếu tố khác trong đó có 2 thành phần phần cứng quan trọng là ổ cứng (hard drive) và bộ nhớ đệm (cache).

1. Các ổ cứng ngày nay có được khả năng tái lập dữ liệu là do cách kết cấu theo kỹ thuật RAID6 để tạo nên các ổ nhớ logic (logical drive) là một dạng sao chép dữ liệu để phòng hờ hỏng hóc. Tuy nhiên, các ổ cứng thông thường ngày nay vẩn dùng công nghệ cơ khí cho nên vận tốc truy cập dữ liệu vẩn còn rất thấp so với vận tốc xử lý của CPU.

2. Để khắc phục phần nào sự "chênh lệch" giữa vận tốc xử lý dữ liệu và vận tốc xuất nhập (I/O -- input output) dữ liệu của các ổ logic, nhiều năm trước, người ta thiết kế ra các bộ nhớ đệm (cache)7 là một loại bộ nhớ có vận tốc lưu trữ dữ liệu rất nhanh nhằm tạm thời lưu giữ các dữ liệu trong khi các ổ logic đang bận thực thi các thao tác khác. Chính bộ nhớ đệm này đã giúp tăng được vận tốc trung bình của toàn bộ hệ thống máy tính lên đáng kể. Vì giá thành của bộ nhớ đệm này rất cao nên dung lượng của nó được trang bị trên mỗi máy tính khá khiêm nhường (từ vài trăm Mb cho đến vài Gb là tối đa; trong khi tổng dung lượng của một bộ lưu trữ ngày nay cho mỗi máy có thể lên đến trên dưới 200,000Gb hay khoảng 200Tb)

Vấn đề nảy sinh là gần đây các ổ cứng loại mới được chế tạo bằng các "memory chip" tức là các bộ nhớ điện tử (thường thấy trên các máy chụp hình số) gọi là SSD (solid state drive)8 Vận tốc của loại này nhanh hơn vận tốc của các loại ổ cứng truyền thống khoảng 10 lần nhưng so với vận tốc của bộ đệm thì SSD nhỏ hơn khoảng 12 lần. (Về giá thị trường của ba loại này cũng tương ứng như thế các bộ nhớ đệm giá khoảng gấp 10 lần SSD và, SSD giá gấp 10 lần ổ cứng thường). Đồng thời dung lượng của nó cũng chỉ khoảng 1/3 dung lượng của ổ cứng thông thường. Xem ra, nếu trang bị mới cho bộ lựu trữ hoàn toàn bằng SSD thì sẽ rất đắt tiền. Vấn đề là làm sao để nâng vận tốc lưu trữ của máy lên nhiều lần gần tương đương với máy tính được trang bị toàn bằng SSD nhưng vẩn không phải trả một giá thành cao như thế.

Nếu dựa theo tầm nhìn trung đạo thì có thể tìm cách thiết kế một hệ thống mới sao cho nó chạy với vận tốc nhanh so sánh được với vận tốc của SSD cũng như giữ nguyên các tính năng về ổ nhớ logic của nó. Dĩ nhiên, một giải pháp dể thấy là dùng SSD như là vai trò của một bộ đệm thứ cấp (level two cache) cỡ lớn. Tuy vậy nếu nhìn kỹ hơn chúng ta sẽ thấy là bộ đệm thứ cấp này dù có tốt thì cũng đã đánh mất đi một tính năng quan trọng mà các ổ cứng đều có thể được kiến trúc nên: đó là việc các ổ cứng có thể được cấu trúc để có khả năng tái lập dữ liệu trong hư hỏng (data redundancy). Như vậy việc thấy được các đặc điểm "trung đạo" của SSD thì người thiết kế có thể tạo ra một bộ đệm thứ cấp cỡ lớn nhưng lại có khả năng tái lập dữ liệu do hỏng hóc. Đồng thời một hệ thống máy tính như thế sẽ có vận tốc tăng cao gấp nhiều lần, tăng cao khả năng bảo dưỡng dữ liệu đồng thời giá cả cho kiểu máy này lại không tăng theo tỉ lệ nhỏ hơn nhiều lần. Đây cũng là mội dung liên can đến phát minh được nêu trong phần đầu của bài viết cũng như liên quan đến một world wide technical publication9 về kiến trúc một kỹ thuật lưu trữ nhằm tối ưu hóa một hệ thống máy tinh trong đó có nhiều cơ chế lưu trữ dữ liệu có các vận tốc sai biệt nhau đáng kể.

III Thay Lời Kết:

Các ứng dụng của Phật giáo vào khoa học đã được các nhà nghiên cứu quan tâm đến trong nhiều thập niên gần đây. Ngoài các chia sẻ tri kiến về vật lý như cách thức tồn tại của vật chất (vật lý vi mô -- lượng tử) và của vũ trụ (vật lý vĩ mô -- vũ trụ học) thì các ứng dụng trực tiếp được thấy đặc biệt rõ nét trong các ngành y học trị liệu, tâm lý học, và thần kinh học10. Tuy vậy, ứng dụng vào các ngành khác của khoa học thì vẩn còn hiếm hoi. Loạt bài viết này chỉ nhằm một mục tiêu nhỏ cho thấy ứng dụng của Phật giáo sẽ không chỉ dừng lại ở các ngành khoa học đã nêu mà nó có thể thâm nhập vào các vị trí khác chẳng hạn nhằm giúp người nghiên cứu vượt qua các khó khăn. Các áp dụng như vậy cũng là một bước khác để kiểm chứng sự đúng đắng của giáo thuyết nhà Phật vì chỉ có thuyết lý đúng thì mới dẫn đến các hậu quả phù hợp, tin cậyáp dụng được. Dẫu sao, truy cho đến cùng thì cho dù có mang đến phúc lợi như thế nào, mụch tiêu chính của Phật giáo vẫn là nhằm mang lại giải thoát hoàn toàn cho chúng sinhđạt đến trí tuệ viên mãn. Theo các giảng huấn Phật giáo thì không có nổ lực tu tập thực nghiệm một cách kiên trìphù hợp, thì sẽ chẳng có giải thoát chẳng có trí tuệ tối thắng.

Kính chúc an lạc
Phật tử Làng Đậu 

Xem Phần I:

ỨNG DỤNG CÁC NGUYÊN LÝ PHẬT GIÁO VÀO NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN TRONG KHOA HỌC Làng Đậu

 


Chú Thích:

  1. Middle Way Logical Volume . I D 200904599 . NhanVo et all. Patent Pending doc.
  2. Phương pháp giải quyết vấn đề và Tứ Diệu Đế  Nguyễn Cung Thông . Huệ Quang. Truy Cập 16/07/2010
  3. Bồ Tát Hạnh. Santideva. Thích Trí Siêu dịch. Chương 5. Trang Quảng Đức. Truy Cập 16/07/2010
  4. Một số chi tiết về Duyên Khởi có thể tìm thấy trong tác phẩm "Tứ Điệu Đế" của đức Đạt-lai Lạt-ma (The Four Noble Truths. Dalai Lama. Thorsons. 1998. ISBN: 0722535503 ) Phần Mở Đầu. Duyên Khởi (bản dịch Việt: http://www.hoavouu.com/D_1-2_2-57_4-3884_15-2_5-75_6-1_17-236_14-1/#nl_detail_bookmark)
  5. Theo lời của đức DLLM trong các bài giảng về "Nhập Bồ Đề Hành Luận" Truy cập tại www.dalailama.com. Xem thêm ý kiến về việc này trong bài Pratītyasamutpāda phần Madhyamaka and Pratityasamutpada . Wikipedia. Cập nhật 23 tháng 07 2010.
  6. Xem thêm về các cách thức tái lập dữ liệu khi hỏng hóc từ kỹ thuật RAID: Bài RAID Wikipedia. Cập nhật 23 tháng 07 2010.
  7. Xem thêm giải thích về chức nănghoạt động của bộ đệm: Cache. Wikipedia. Cập nhật 23 tháng 07 2010.
  8. Xem thêm: Solid-state drive Wikipedia. Cập nhật 23 tháng 07 2010.
  9. Self Optimizing for Performance -- A New Virtual Storage Device System. PD Number: 201000845. Nhan Vo et all. HP World-wide Technical Publication 2010.
Xem thêm về các nổ lực nghiên cứu ứng dụng của Phật học tại trang WEB Mind and Life: http://www.mindandlife.org/index.html

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3497)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 7355)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4523)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4578)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7351)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2970)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12221)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 4000)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3814)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4229)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3690)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5069)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6695)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4013)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4130)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5345)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3792)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4538)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3561)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3935)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4396)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5396)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3847)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3942)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3879)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4832)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4531)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4272)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3844)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4647)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4214)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6118)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4611)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4957)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4197)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4829)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5673)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3655)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4051)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4593)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5289)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3150)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4768)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4563)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4302)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4751)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4498)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4608)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7227)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5215)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5011)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4600)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5620)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5282)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4164)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6024)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4722)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4885)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5494)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5624)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant