Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đại đức Đề Bà Đạt Đa

22 Tháng Hai 201100:00(Xem: 18329)
Đại đức Đề Bà Đạt Đa

MƯỜI VỊ ĐỆ TỬ LỚN CỦA PHẬT 
Nguyên tác Hán Văn: Tinh Vân Pháp Sư - Việt dịch: Cư Sĩ Hạnh Cơ
biên soạn phần Phụ Lục - Hiệu đính: Nữ Cư Sĩ Tịnh Kiên
Chùa Liên Hoa, Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County xuất bản 2005

PHỤ LỤC
(Do cư sĩ Hạnh Cơ biên soạn thêm)

Đại đức ĐỀ BÀ ĐẠT ĐA

(Devadatta)
(Vị đệ tử phản nghịch nguy hiểm nhất của Phật)

 

Thân vương Bạch Phạn (Suklodana - Sukkodana) là bào đệ của vua Tịnh Phạn (Suddhodana), vương quốc Thích Ca. Ông có hai con trai, trưởng là Đề Bà Đạt Đa và thứ là A Nan Đà (gọi tắt là A Nan) (1). Như vậy, Đề Bà Đạt Đa là em con chú của Phật.

Thuở còn đi học, Đề Bà Đạt Đa (gọi tắt là Đề Bà) đã học cùng lớp với thái tử Tất Đạt Đa, và đã tỏ ra là một cậu bé thông minh, các môn học về văn cũng như võ đều xuất sắc, hơn tất cả chúng bạn, chỉ chịu đứng dưới mỗi một mình thái tử mà thôi. Tuy vậy, tính tình hai người rất khác nhau. Trong khi thái tử Tất Đạt Đa điềm đạm, khiêm cung, thì vương tử Đề Bà hay tranh giành, tự phụ.

Đề Bà rất thân với thái tử, nhưng cũng thường hay ganh tị với thái tử. Hồi Đề Bà mới có tám tuổi (nhỏ hơn Tất Đạt Đa một tuổi), đã xảy ra chuyện giành nhau với thái tử một con ngỗng trời. Sự việc chẳng quan trọng gì, vậy mà đã phải đem ra trước phiên họp của triều đình phân xử. Kết quả là thái tử thắng cuộc; và Đề Bà rất uất ức vì thua cuộc. Lúc lớn lên, trong một cuộc thi võ nghệ do triều đình tổ chức, Đề Bà chỉ đứng hạng nhì; còn thái tử thì đã thắng tất cả các môn thi (bắn cung, đánh kiếm, cưỡi ngựa v.v...) đứng hạng nhất, và được trao giải thưởng là một con bạch tượng quí báu. Ngưòi được cử thay mặt ban tổ chức đem giải thưởng trao cho thái tử chính là công chúa Da Du Đà La, con vua Thiện Giác (Suprabuddha - Suppabuddha) và hoàng hậu Cam Lộ (Amita, em gái vua Tịnh Phạn) ở vương quốc Câu Lị (Koliya). Đề Bà thấy thế thì bực tức lắm, liền tiến tới, đấm cho con bạch tượng một đấm với tất cả sức mạnh của mình, khiến cho con bạch tượng phải ngã quị. Ấy thế mà thái tử cũng chỉ trách nhẹ một câu: “Em làm vậy không tốt”.

Trong chuyến về thăm hoàng cung Ca Tì La Vệ lần đầu tiên của đức Phật sau ngày thành đạo, Đề Bà đã theo Phật xuất gia (cùng với các vị vương tử, vương tôn khác, trong đó có A Nan).

Trong mười hai năm đầu của đời sống xuất gia, tuy chưa chứng thánh quả, nhưng đại đức Đề Bà đã có một nếp tu tập chuyên cần, nghiêm tịnh, gương mẫu, đến nỗi tôn giả Xá Lợi Phất đã hết lòng ca ngợi trước mọi người, làm cho dân chúng khắp thành Vương Xá đều biết. Thế rồi về sau, vì bị danh lợi trần thế làm cho ám muội, đại đức đã hoàn toàn đổi tánh, ác độc, xấu xa, đồi trụy, lại ganh tị với đức Phật, và trở thành một phản đồ nguy hiểm của đức Phật.

Trước hết, vì để cầu lợi dưỡng, đại đức đã xin Phật dạy cho luyện thần thông, nhưng Phật không dạy. Đại đức liền xin học với hai tôn giả Xá Lợi PhấtMục Kiền Liên, nhưng hai vị này cũng không dạy. Đại đức lại đến cầu học với tôn giả Thập Lục Ca Diếp (Dasabalakasyapa - Dasabalakassapa - tức Bà Sa, Vaspa - Vappa), và chứng được thần thông, bèn lấy làm tự đắc. Bắt đầu từ đó, đại đức nảy ra tham vọng thay thế Phật để lãnh đạo giáo đoàn. Đại đức chưa công khai chống đối Phật, nhưng đã dùng trí thông minh và tài hùng biện để thu hút người. Bởi vậy, số người theo đại đức rất đông đảo; giới xuất gia có khoảng năm trăm tì kheo, gồm phần lớn là những vị trẻ tuổi, công phu tu tập còn non yếu; giới tại gia thì gồm rất nhiều vị cưgiàu có, trong đóm người quan trọng nhất là thái tử A Xà Thế (Ajatasatru - Ajatasattu), con vua Tần Bà Sa La, nước Ma Kiệt Đà. Thái tử đã tin kính và ủng hộ đại đức rất nhiệt thành, giống như nhà vua Tần Bà Sa La tin kính và ủng hộ đức Phật. Thái tử đã xây cất cho đại đức một ngôi tu viện to lớn, nguy nga trên núi Già Da (Gayasisa, tức núi Tượng Đầu); cứ ba bốn ngày một lần, thái tử lại cho chở các vật phẩm cần thiết đến thẳng tu viện để cúng dường đại đức. Bởi vậy, uy tín của đại đức càng lúc càng cao, và tính kiêu mạn của đại đức cũng ngày càng tăng trưởng. Đại đức thường nói với mọi người là bây giờ Phật đã lớn tuổi, không còn đủ sức để lãnh đạo giáo đoàn; vả lại, cách thức tu tập của Phật đã lỗi thời rồi, không còn phù hợp với thời đại mới.

Một hôm (vào năm Phật bảy mươi hai tuổi), Phật nói pháp tại tu viện Trúc Lâm, gần thành Vương Xá. Buổi pháp thoại đã có rất đông đảo người dự thính, kể cả vua Tần Bà Sa La. Khi pháp thoại vừa chấm dứt, Đề Bà Đạt Đa liền đứng lên, tiến tới trước Phật, đảnh lễ một cách cung kính, rồi bạch:

- Bạch Thế Tôn! Năm nay Thế Tôn tuổi đã cao, sức khỏe đã kém. Xin Thế Tôn hãy lui về tịnh xá nghỉ ngơi để đỡ bót mệt nhọc. Con sẽ xin thay Thế Tôn lãnh đạo giáo đoàn.

Khi đại đức thưa với Phật những lời ấy thì ở dưới thính chúng cũng có hơn ba trăm vị tì kheo đồng đứng đứng lên, chắp tay tỏ ý ủng hộ đại đức. Đức Phật nhìn thẳng vào mắt đại đứctrả lời:

- Xin cám ơn thầy đã lo lắng cho Như Lai. Như Lai vẫn còn đủ sức để lãnh đạo giáo đoàn. Vả lại, trong số các đệ tử lớn của Như Lai, vẫn còn có những vị xuất sắc và xứng đáng hơn thầy nhiều, mà Như Lai cũng chưa giao cho họ trách nhiệm lãnh đạo giáo đoàn, huống hồ là thầy. Thầy chưa đủ tư cách đâu.

Nghe thế, đại đức rất lấy làm xấu hổ, và căm giận đức Phật vô cùng, liền bỏ đi xuống, không nói thêm gì nữa. Sau đó Phật đã bảo cho tôn giả A Nan biết, sở dĩ Ngài phải nặng lời với Đề Bà là muốn cho nhà vua cùng mọi người hiểu rằng, Đề Bà không phải là nhân vật quan trọng trong giáo đoàn; những hành vi của Đề Bà sẽ do đại đức ấy hoàn toàn chịu trách nhiệm, không liên quan gì tới giáo đoàn.

Trong một buổi pháp thoại sau đó, cũng tại tu viện Trúc Lâm, đại đức Đề Bà Đạt Đa đã trình lên Phật pháp chế năm điểm, gọi là “thực hiện các nguyên tắc thiểu dục và tri túc”, để “chấn chỉnh nếp sống tăng đoàn”:

1) Tì kheo suốt đời ở trong rừng hoặc vườn cây, không được cư trú trong các thôn xóm hay thành phố.

2) Tì kheo suốt đời chỉ ngủ ở gốc cây, không được ngủ trong các phòng ốc.

3) Tì kheo suốt đời khất thực và chỉ ăn mỗi ngày một bữa, không được tới nhà thí chủ thọ cúng dường.

4) Tì kheo chỉ mặc y chằm vá bằng những miếng giẻ rách hay vải vụn lượm ở các đống rác hay các bãi tha ma, không được nhận y do thí chủ cúng dường.

5) Tì kheo tuyệt đối ăn chay, không được đụng tới thịt cá.

Đức Phật đã bác bỏ hoàn toàn năm điểm ấy. Ngài tuyên bố rằng, đối với năm điều do Đề Bà đề nghị kia, các đệ tử của Ngài, ai muốn áp dụng hay không cũng được. Giáo ppáp của Ngài là giáo pháp trung đạo, không bắt buộc phải theo một hình thức cực đoan nào cả. Đề Bà cũng biết trướcđức Phật không khi nào chấp nhận năm điều ấy, nhưng đại đức đã cố tình đưa ra thỉnh nguyện là để cho đức Phật từ chối, để có cớ mà thực hiện âm mưa của mình. Âm mưu của đại đức lớn lắm, có liên quan đến cả lĩnh vực chính trị lẫn tình hình giáo đoàn.

Về lĩnh vực chính trị, đại đức đã xúi giục thái tử A Xà Thế giết vua cha Tần Bà Sa La để sớm lên ngôi vua. Làm như thế là vừa có lợi cho A Xà Thế, mà cũng vừa có lợi cho đại đức.

Về phía giáo đoàn thì đại đức đang âm mưu chia rẽ tăng chúng trước. Sau đó, chờ khi thái tử A Xà Thế giết vua cha xong, lên ngôi vững vàng, đại đức sẽ nhờ vào thế lực của vua A Xà Thếđoạt lấy địa vị lãnh đạo toàn thể giáo đoàn. Bởi vậy, lấy cớ đức Phật từ chối lời thỉnh cầu của mình, đại đức đã nói xấu đức Phật để lung lạc số tì kheo kém hiểu biết, và kéo họ về phe mình. Đại đức kêu gọi:

- Này quí thầy! Năm điểm yêu cầu của tôi và những lời của đức Thế Tôn, cái nào cao thượng hơn? Ai muốn thoát mọi khổ não và sớm chứng niết bàn, xin hãy theo tôi!

Lúc ấy một số tì kheo mới xuất gia, giáo pháp còn kém cõi, nghe những đề nghị của đại đức thì cho là hợp lí, nên đi theo ngay. Đại đức dẫn tất cả những người theo mình về tu viện riêng ở núi Già Da. Tại đây, đại đức đã thành lập một giáo đoàn độc lập. tự gọi mình là giáo chủ. Sinh hoạt riêng biệt, cắt đứt mọi quan hệ với giáo đoàn của Phật.

Với sự cố vấn của đại đức, thái tử A Xà Thế đã soán ngôi, rồi bắt vua cha giam vào ngục và bỏ đói cho đến chết. Về phần đại đức, theo như kế hoạch mà hai người đã đồng ý, đại đức sẽ sát hại đức Phật khi thuận tiện.

Một đêm nọ trên núi Linh Thứu (Grdhrakuta - Gijihakuta) (2), đang ngồi thiềnngoài trời trước cửa tịnh thất, đức Phật thấy có một người đang lấp ló trong bụi cây trước mặt với một thanh gươm sáng loáng. Ngài lên tiếng gọi người ấy đến, hỏi ra mới biết anh ta là một quân nhân, được lệnh chủ tướng lên đây giết Ngài, nhưng khi thấy Ngài thì lại không dám hành động. Ngài liền an ủihóa độ cho. Trong khi đó thì hai tôn giả Xá Lợi PhấtMục Kiền Liên, thừa ý chỉ của Phật, cùng đi sang núi Già Da. Hai vị ở với đại đức Đề Bàgiáo đoàn mới, nhưng mục đích là để giảng nói giáo pháp, giúp cho các vị tì kheo đã vì non yếu mà lầm đường lạc lối. Một tháng sau, hai vị tôn giả đã về lại tu viện Trúc Lâm, dẫn theo ngót bốn trăm vị tì kheo đã hồi tâm chuyển ý, nguyện quay về với đức Phật. Sau đó mấy ngày, một số quí vị khác từ núi Già Da cũng lục tục kéo về tu viện Trúc Lâm, vì tất cả đều nhận rõ chỉ có Phật mới là bậc đạo sư chính đáng nhất mà thôi. Sự việc này xảy ra, đã làm cho đại đức Đề Bà Đạt Đa tức giận điên người, cho nên lại rắp tâm trả thù.

Một buổi chiều, lúc Phật đang đứng bên sườn núi Linh Thứu, nơi có nhiều mô đá nhấp nhô. Đại đức Đề Bà đã trèo lên trên đỉnh cao, xô một tảng đá thật lớn cho lăn xuống ngay chỗ Ngài đang đứng. May thay, khi lăn xuống gần tới chỗ đức Phật thì tảng đá bị chận lại bởi những mô đá khác. Tảng đá đứng lại, nhưng sức va chạm mạnh tới các mô đá khác làm cho nó bể một phần, văng ra vài mảnh nhỏ; và một mảnh đã văng trúng vào chân trái của Phật, làm Ngài bị thương, máu chảy nhiều, phải nhờ y sĩ Kì Bà (Jivaka) (3) chữa trị.

Rồi một buổi sáng nọ - lúc này, vua Tần Bà Sa La đã băng - khi Phật và chư tăng đang đi khất thực trong thành Vương Xá, thì một con voi to lớn từ trong chuồng voi của hoàng cung, điên cuồng chạy về phía đức Phật. Con voi này có tiếng là hung dữ nhất nước, ai ai cũng biết, được hoàng cung nuôi và canh giữ cẩn thận. Nó mà xổng ra khỏi chuồng thì nhất định sẽ có hàng trăm người chết vì nó, nhưng sao tự nhiên hôm nay nó lại xổng ra một cách quá nguy hiểm như thế? Khi thấy nó, từ tôn giả A Nan, các vị tì kheo, cho đến dân chúng hai bên đường phố đều hoảng sợ, nhưng đức Phật đã đứng lại một cách rất trầm tĩnh. Khi con voi chạy tới còn cách Phật mươi bước thì bị Phật chế ngự. Nó bỗng đứng khựng lại, rồi quì mọp xuống trước đức Phật, vòi tai, đuôi đều cụp lại hết. Ngài tiến đến sò đầu nó và bảo nó đứng lên. Rồi Ngài đích thân dắt nó đem trả về lại cho chuồng voi hoàng cung.

Sau sự việc này, đại đức Đề Bà mất hết uy tín. Dư luận quần chúng đã phân biệt rõ đâu là chính, đâu là tà. Họ công khai chống đối đại đức. Số tì kheo sau cùng trong giáo đoàn của đại đức, trừ sáu vị còn ở lại với đại đức, tất cả những vị khác cũng bỏ tu viện Già Da để quay về Trúc Lâm. Vua A Xà Thế, sau cái chết đau thương của vua cha do mình chủ tâm sát hại, cũng bắt đầu hối hận, và qui y theo Phật. Vì nhận rõ đâu là con đường chính và đâu là con đường tà, nhà vua đã bỏ rơi, không tiếp tục ủng hộ đại đức Đề Bà nữa. Đại đức đã hoàn toàn bị cô lập. Sau đó đại đức đã lâm trọng bệnh liên tiếp nhiều năm, chỉ ở yên một chỗ, không đi đâu được. Những người từng nhiệt thành ủng hộ đại đức trước kia, không một ai đến thăm đại đức.

Vào năm Phật bảy mươi chín tuổi, sau mùa an cư tại tu viện Kì Viên ở thành Xá Vệ, Ngài về trở lại núi Linh Thứu ở thành Vương Xá. Một buổi chiều nọ, có hai vị tì kheo khiêng đại đức Đề Bà Đạt Đa lên núi Linh Thứu. Theo lời hai vị này thì trong thời gian bị bệnh mấy năm qua, đại đức đã có nhiều thời giờ chiêm nghiệm về những được thua, thành bại, và suy xét lại những hành động của mình trong những năm trước đây. Đại đức đã thành khẩn ăn năn, và muốn được yết kiến Phật trước khi lìa đời. Lúc đó đại đức đã yếu lắm rồi, thấy Phật đứng trước mặt mà không ngồi dậy được, chỉ biết nhìn Phật chăm chú với cặp mắt khẩn cầu tha thứ. Cuối cùng, cố gắng lắm đại đức mới bật nói được vỏn vẹn một câu: “Đệ tử qui y Phật". Phật để tay lên trán đại đức để an ủichấp nhận sự sám hối của đại đức.

Chiều hôm đó đại đức qua đời.

CHÚ THÍCH

(1) Có sách nói Đề Bà Đạt ĐaA Nan là con của thân vương Hộc Phạn (Dronodana), người em thứ hai của vua Tịnh Phạn. Lại có sách nói Đề Bà là con của vua Thiện Giác và hoàng hậu Cam Lộ, trị vì vương quốc Câu Lị. Trong trường hợp này, Đề Bà là em của công chúa Da Du Đà La; cho nên ông vừa là em vợ, cũng vừa là em cô cậu của thái tử Tất Tạt Đa - vì hoàng hậu Cam Lộ là em gái của vua Tịnh Phạn.

(2) Núi Linh Thứu tức núi Kì Xà Quật. “Kì Xà Quật” là dịch âm từ tiếng Phạn; “Linh Thứu” là dịch ý. Núi này nằm ở phía Đông Bắc, và là ngọn núi lớn nhất trong năm ngọn núi bao quanh thành Vương Xá. Chóp núi trông giống như đầu chim thứu (tức chim kênh kênh, thích ăn xác chết), nên núi có tên là Linh Thứu. Lại nữa, trên núi này có rất nhiều chim thứu ở, nên núi được gọi là Linh Thứu. Cảnh trí trên núi rất đẹp đẽ, có khe suối chứa nhiều nước trong lành, có nhiều hang động kín đáo rất thuận tiện cho sự tu tập của tăng chúng. Tu viện Trúc Lâm vẫn là đạo tràng chính ở thành Vương Xá, nhưng khoảng mười lăm năm sau ngày thành đạo, mỗi khi trở về đây hoằng hóa, đức Phật thường ngự trên nú Linh Thứu. Từ đó, núi này trở thành một đạo tràng nổi tiếng của đức Phật. Trên đỉnh núi có đàn nói pháp, có tịnh thất của Phật và của các vị đệ tử lớn của Ngài. Vua Tần Bà Sa La đã cho xây mấy trăm bậc cấp bằng đá suốt từ chân lên đến đỉnh núi. Các thung lũng nhỏ được san bằng. Các khe suối thì vua cho bắc cầu để đi qua. Đứng trên đỉnh núi có thể nhìn thấy khắp thành Vương Xá. Các bậc cấp dẫn lên núi ngày nay vẫn còn. Các di tích khác từ thời Phật nền đá của đàn nói pháp, các thạch thất của Phật và của các vị đệ tử, nơi Phật bị mảnh đá văng (do Đề Bà Đạt Đa từ trên cao xô xuống để hại Phật) làm chảy máu chân v.v... hiện nay vẫn còn.

(3) Kì Bà là một trong những đệ tử tại gia thân cận nhất của Phật. Ông là một hoàng tử, con của vua Tần Bà Sa La và bà phi tần Am Bà Bà Lị (Amrapali - Ambapali), tức là cùng cha khác mẹ với thái tử A Xà Thế. Ông học ngành y từ năm mười bốn tuổi, đến hai mươi ba tuổi thì tốt nghiệp, và trở thành một vị lương y nổi tiếng, vì đã từng chữa lành cho nhiều người bị bệnh hiểm nghèo. Ông gặp Phật lần đầu tiên năm ông mười lăm tuổi. Từ đó ông kính mến Phật, và tự hứa là sau khi học thành tài, sẽ về ở gần Phật để học tập chánh pháp. Bởi vậy, về sau ông đã mua một khu vườn xoài rất rộng ở gần núi Linh Thứu, cất một tịnh xá trong đó để ở. Ông cũng cất sẵn một tịnh thất nhỏ trong vườn để thỉnh thoảng Phật ghé nghỉ ngơi sau những chuyến du hành vất vả. Những lúc đó, chính ông tự tay săn sóc mọi việc cho Phật, từ com nước đến thốc thang. Về sau, ông cũng xây cất một giảng đường thật lớn, có thể chứa cả ngàn người, để thỉnh thoảng Phật nói pháp. Ông vừa là ngự y của vua Tần Bà Sa La, mà cũng vừa là y sĩ thường trực của Phật và tăng đoàn. Chính ông cũng đã tạo ra truyền thống dâng y hàng năm cho Phật và tăng chúng. Khi xảy ra vụ đại đức Đề Bà Đạt Đa âm mưu với thái tử A Xà Thế, một đằng giết cha, một bên chia rẽ tăng chúnggiết Phật, ông đã rất lo lắng sự an nguy của Phật cũng như tiếng tăm của giáo đoàn. Ông đã theo sát mọi hành động của đại đức Đề Bà cũng như của thái tử để báo cáo lên Phật đề phòng. Vua A Xà Thế, sau khi giết cha là cua Tần Bà Sa La, đã hết sức hối hận. Nhân đó, Kì Bà khuyên nhà vua nên đến yết kiến Phật. Sau phút ngần ngừ, nhà vua chịu đi gặp Phật. Kì Bà đã thỉnh Phật xuống vườn của ông, rồi đích thân ông đưa nhà vua đến đó. Sau buổi đàm đạo với Phật, nhà vua thấy lòng cởi mở nhẹ nhàng, liền xin qui y làm đệ tử tại gia của Phật. Sau đó, Kì Bà đã xin Phật cho xuất gia. Phật hoan hỉ chấp thuận.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1539)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1672)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1654)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1045)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1531)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1515)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1692)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1953)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1549)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1376)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1384)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1574)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1164)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1281)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1301)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1705)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1659)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3030)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1834)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1375)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1230)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1294)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1422)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1331)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1932)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1705)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1903)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1833)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2412)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1799)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2148)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2250)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2321)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1867)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1987)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2043)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1977)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2609)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1955)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1904)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1967)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1918)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2182)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2332)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 2009)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2124)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1894)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1932)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2435)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2349)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 4058)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2517)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3220)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2496)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2071)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1811)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3324)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2362)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3050)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant