Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương Sáu: Thiền Định

01 Tháng Tư 201100:00(Xem: 8167)
Chương Sáu: Thiền Định

CUỘC ĐỜI CỦA MILAREPA

Đại Thiền Giả Một Đời Thành Phật của Tây Tạng
Một Bản Dịch Mới Từ Tiếng Tây Tạng Bởi Lobsang P. Lhalungpa
Nguyên tác: The Life of Milarepa - A New Translation from the Tibetan 
by Lobsang P. Lhalungpa, Arkana, 1993 - Nhà xuất bản Thiện Tri Thức, 2000

PHẦN HAI
CHƯƠNG SÁU
THIỀN ĐỊNH

Bấy giờ Retchung hỏi, “Đạo sư Tôn Quý, khi ngài đến nơi quê nhà, ngài có thấy mẹ ngài còn sống hay sự việc đúng như ngài nằm mộng?”

Đạo sư trả lời, “Đúng như trong giấc mộng kia, thầy không may mắn gặp lại mẹ nữa.” Bấy giờ Retchung nói, “Bạch Đạo sư, xin ngài nói cho chúng con ngôi nhà của ngài ra sao và ai là người ngài gặp đầu tiên ?” Và Milarepa tiếp tục :

Người đầu tiên thầy gặp là những người chăn cừu. Đó là chỗ thung lũng trên cao từ đó thầy có thể thấy căn nhà của thầy. Làm như không biết, thầy hỏi tên vùng này và những ai là chủ đất ở đây. Họ thành thật trả lời. Rồi chỉ ngôi nhà của mình, thầy hỏi, “Và chỗ dưới kia, gọi là gì? Tên người chủ là ai?”

Một người chăn cừu trả lời, “Căn nhà đó gọi là Bốn Cột và Tám Xà. Nó không có chủ, chỉ có hồn ma.”

“Những người ở đó đã chết hay bỏ làng rồi?” Thầy hỏi.

“Một thời chủ của ngôi nhà ấy là một người giàu có nhất vùng. Ông chết sớm, để lại chỉ có một đứa con trai còn nhỏ. Bởi vì người cha làm chúc thư không khôn ngoan, những anh em họ lấy mất toàn bộ tài sản của đứa con trai. Khi đứa con lớn lên, để trừng phạt họ đã chiếm gia tài, nó đem lại bất hạnh cho làng bằng cách phóng ra những chú thuật và làm những trận mưa đá.”

“Có lẽ người ta sợ thần bảo vệ của anh ta và thậm chí không dám nhìn ngôi nhà và miếng đất, hãy để tôi một mình đến đó.” Thầy nói.

Người chăn cừu nói tiếp, “Ngôi nhà chứa hài cốt của bà mẹ và có hồn ma của bà. Còn đứa em gái của anh ta bỏ hài cốt mẹ ở đó rồi ra đi đâu mất, không ai biết. Về phần anh con trai, anh ta đã chết hay mất tích. Có nghe nói có một cuốn sách thiêng ở trong nhà. Ẩn sĩ, nếu ông dám, hãy đến xem tận mắt.”

“Những biến cố ấy xảy ra đã bao lâu ?”

“Người mẹ đã chết khoảng tám năm trước. Không ai nhớ gì ngoài những lời nguyền và mưa đá. Tôi cũng chỉ nghe nói về điều ấy từ những người khác.”

Quả là những người dân làng sợ thần bảo vệ của thầy như vậy.

Thầy nghĩ họ sẽ không dám làm hại thầy. Nhưng sự biết chắc rằng người mẹ già nua của thầy đã chết và em gái lang thang làm lòng thầy ngập đầy buồn đau. Thầy khóc, và tìm chỗ nấp cho đến khi chiều xuống. Đợi trời tối, thầy đi vào làng.

Thật đúng như trong giấc mộng của thầy. Thửa đất lấp đầy cỏ dại. Thầy vào nhà, trước kia nguy nga như một ngôi chùa. Mưa và bụi rơi trên những cuốn sách kinh, Lâu Đài Châu Ngọc. Chuột đã làm ổ ở đó, phân chim phân chuột phủ đầy sách vở. Thấy cảnh đó, thầy chìm trong suy tưởng và lòng thầy trĩu nặng buồn rầu.

Thầy đi vào phòng chính. Những đổ nát của lò sưởi trộn với rác rưới làm thành một đống đất cỏ dại um tùm. Ở đó có những ống xương trắng không còn nguyên vẹn. Thầy hiểu đó là bộ xương của mẹ mình. Nhớ lại mẹ, thầy chấn động vì xúc cảm và hầu như ngất đi.

Ngay sau đó, thầy nhớ lại những lời dạy của lama. Hợp nhất tâm thức thầy với tâm thức của mẹ và với tâm giác ngộ của chư lama dòng Kagyuš, thầy ngồi trên bộ xương của mẹ và thiền định với một sự tỉnh giác thanh tịnh không một khoảnh khắc phóng dật trong thân, ngữ, tâm. Thầy thấy rõ khả năng giải thoát cho cha và mẹ khỏi sự khổ đau của sanh tử luân hồi.

Bảy ngày trôi qua và thầy ra khỏi thiền định. Thầy bắt đầu tư duy về sự phù phiếm của sanh tử. Thầy sẽ làm một di tích để thờ bằng xương cốt mẹ thầy, và thầy bán bộ sách Lâu Đài Châu Ngọc để làm việc ấy. Sau đó, thầy sẽ đến Núi Răng Ngựa Trắng và hiến mình cho thiền định ngày đêm trong suốt quãng đời còn lại của mình và sẽ tự tử nếu nghĩ đến Tám Mối Bận Tâm của Thế Gian. Nếu thầy thua quy luật của dục lạc, nguyện những hộ pháp hãy lấy đi mạng sống của thầy. Thầy lập đi lập lại lời thề này từ đáy sâu của lòng mình.

Thầy gom xương của mẹ thầy và những cuốn sách lại, và lễ bái chúng, sau khi đã phủi sạch bụi và phân chim. Sách không bị hư hại nhiều và còn đọc được. Trên lưng, thầy vác phần đầu của bộ sách không bị hư hại, xương mẹ thầy mang trước ngực. Lòng thầy tràn ngập sự phù du vô ích của sanh tử. Vượt khỏi sự đau buồn mênh mông, thầy hát lên Bài Ca Bình Thản này, cam kết hiến trọn đời mình cho Phật tánh, mục tiêu cốt lõi của Pháp :

“Ôi bậc Tôn Quý, Bi Mẫn và Bất Động,
Đúng như lời tiên tri của Marpa Dịch Giả,
Ở đây trong ngục tù ma quỷ của quê hương con
Con tìm thấy một vị thầy của huyễn ảo phù du.

Xin ban phước cho con, để con có thể hấp thụ những 
sự thật
Do vị thầy này ban cho.
Mọi sự vật hiện hữu
Đều vô thường và chuyển động thường trực.
đặc biệt thế giới sanh tử này
Thì không tự tánh, không mục tiêu, không giá trị.

Hơn là dấn thân vào những hoạt động phù phiếm
Con phải hiến mình cho mục tiêu cốt lõi của Pháp.

Trước tiên, khi có một người cha,
Thì không có đứa con.
Khi đã có đứa con, thì cha không có nữa,
Sự gặp gỡ của chúng ta chỉ là hư huyễn.
Tôi, đứa con ấy, sẽ thực hành Thật Pháp.
Tôi đi thiền định ở Núi Răng Ngựa Trắng xa kia.

Khi có một bà mẹ, đứa con không có.
Giờ con đến đây, mẹ đã mất rồi,
Sự gặp gỡ của chúng ta chỉ là hư huyễn.
Tôi, đứa con ấy, sẽ thực hành Thật Pháp.
Tôi đi thiền định ở Núi Răng Ngựa Trắng xa kia.

Khi có một em gái, thì người anh không có.
Nay anh đã đến, em gái lại lang thang
Sự gặp gỡ của chúng ta chỉ là hư huyễn.
Tôi, người anh ấy, sẽ thực hành Thật Pháp.
Tôi đi thiền định ở Núi Răng Ngựa Trắng xa kia.

Khi có những cuốn kinh, thì không có sự tôn kính.
Giờ tôi tôn kính những cuốn kinh, chúng đã hư hại vì mưa,
Sự gặp gỡ của chúng ta chỉ là hư huyễn
Tôi, người con ấy, sẽ thực hành Thật Pháp.
Tôi đi thiền định ở Núi Răng Ngựa Trắng xa kia.

Khi có ngôi nhà, thì không có chủ.
Nay chủ đã đến, nó lại sập nát rồi,
Sự gặp gỡ của chúng ta chỉ là hư huyễn.
Tôi, người con ấy, sẽ thực hành Thật Pháp.
Tôi đi thiền định ở Núi Răng Ngựa Trắng xa kia.

Khi có miếng đất phì nhiêu, thì không người làm.
Nay người làm đến, nó đã thành rừng,
Sự gặp gỡ của chúng ta chỉ là hư huyễn.
Tôi, người con ấy, sẽ thực hành Thật Pháp.
Tôi đi thiền định ở Núi Răng Ngựa Trắng xa kia.

Này đất, này nhà, này quê hương đất tổ
Đều thuộc về một thế giới không sanh,
Hãy để ai ngu mê nhận lấy chúng.
ẩn sĩ, Thật Tánh tôi tìm.

Hỡi Cha bi mẫn, Dịch Giả Marpa,
Xin ban phước cho kẻ ăn mày này để nó có thể thiền định trong đơn độc.”

Sau khi hát bài ca này, thầy bỏ đi đến nhà thầy dạy ngày xưa chỉ cho thầy học đọc. Ông đã chết, thế nên thầy trao phần đầu Lâu Đài Châu Ngọc cho con của thầy giáo, nói, “Tôi sẽ đưa cho anh phần còn lại của bộ sách thiêng liêng này. Hãy làm những tượng nhỏ bằng xương của mẹ tôi.”

Anh ta trả lời, “Những vị thần bảo vệ của ông chắc chắn theo sách của ông, thế nên tôi không muốn sách đâu, nhưng tôi sẽ làm giúp ông những tượng nhỏ.”

“Những thần bảo vệ của tôi không giữ gìn những cái gì tôi đã tặng.”

“Thế thì được”, anh ta nói.

Với sự phụ giúp của thầy, anh làm những tượng nhỏ bằng xương của mẹ thầy.(1) Rồi hai người cử hành lễ cúng và an vị những tượng vào trong một cái tháp. Sau đó thầy sửa soạn rời bỏ.

Người con của thầy giáo nói, “Hãy ở lại đây vài ngày chuyện trò, và tôi sẽ đưa cho ông những đồ cần thiết.”

Thầy trả lời, “Tôi không có thời giờ để trò chuyện. Tôi khát khao chuyện thiền định.”

“Vậy thì hãy ở lại đêm nay. Ngày mai khi ra đi tôi sẽ cho ông lương thực.”

Thầy bằng lòng ở lại, và anh ta nói tiếp, “Khi ông còn trẻ, ông đã đánh bại những kẻ thù của ông bằng huyền thuật. Nay ông đang thời kỳ sung sức nhất của cuộc đời, ông thuyết giảng một giáo lý kỳ diệu. Một ngày nào ông sẽ trở thành một đại Bồ tát. Từ lama nào ông đã nhận những giáo huấn, các ngài ấy là ai ?” Anh ta hỏi thầy nhiều câu hỏi rất chi tiết.

Thầy trả lời, “Tôi đã có được giáo huấn Đại Toàn Thiện. Nhưng trên tất cả, tôi đã gặp ngài Marpa.”

“Kỳ diệu thay ! Nếu là thế, quả tốt đẹp nếu ông sửa sang lại nhà cửa, cưới cô Zessay, và tiếp tục theo bước chân của lama của ông.”

Thầy trả lời, “Lama Marpa lập gia đình là vì lợi lạc cho tất cả chúng sanh. Nhưng tôi không có ý định cũng như có khả năng làm như ngài. Làm như vậy mà không có công đức hạnh nguyện như ngài thì cũng giống như một con thỏ tưởng tượng mình có thể theo dấu chân một con sư tử. Nó sẽ rơi vào vực sâu và chắc chắn chết. Buồn chán vòng sanh tử luân hồi, tôi không muốn gì ngoài thiền địnhtuân theo những lời dạy của lama. Nền tảng căn bản nhất của giáo pháp của ngài là sự thiền định thực hành trong hoang vắng. Chính trong cách thức ấy mà tôi sẽ tiếp tục con đường của ngài. Chỉ bằng thiền định tôi mới có thể đáp ứng được những hy vọng của ngài. Nó sẽ phụng sự mục tiêu của giáo lý và giúp đỡ tất cả chúng sanh. Thậm chí nó cứu độ cha và mẹ tôi, và sẽ đem lại sự thành tựu cho mục đích của tôi. Tôi chỉ biết làm thế nào để thiền định, và tôi không thể làm gì khác.

“Tôi không có ý nghĩ nào khác. Tôi trở về làng cũ chủ yếu bởi vì cha mẹ tôi có một ngôi nhà và tài sản ở đó. Sự biến mất tất cả tài sản thế gian của tôi đã làm mạnh thêm ước muốn thiền định của tôi đến độ bây giờ nó giống như một ngọn lửa cháy hừng hực trong lồng ngực.

“Những người khác không biết đến những bất hạnh như vậy. Với những ai không nghĩ đến những khổ đau của cái chết và những cõi thấp, những lạc thú cảm giác của cuộc đời có thể là đủ. Về phần tôi, mọi thứ đó thúc đẩy tôi hiến mình cho thiền định với sự hoàn toàn chẳng màng đến thực phẩm, áo quần hay sự công nhận.”

Với giọng xúc động, thầy hát bài ca này :

“Con lạy dưới chân Thầy Marpa, bậc Toàn Thiện.
Xin ban phước cho kẻ ăn mày này để nó thoát khỏi những bám luyến thế phàm.

Than ôi ! Than ôi ! Khổ thay, khổ thay !
Khi tôi nghĩ đến những người tin vào những sự vật thế gian,
Lòng tôi ngập đầy đau buồn.

Vui thích với những sự vật thế gian làm khơi dậy khốn khổ tận ngọn nguồn của nó.
Và người ta bị ném vào xoáy nước sanh tử cuồn cuộn không ngừng.
Họ có thể làm gì, những người bị mắc lưới muộn phiền và thống khổ ?
Không có cách hành động nào khác ngoài sự sùng mộ Pháp.

Marpa Tôn Quý, Bất Động, bậc Nắm Giữ Chân Lý Tối Hậu,
Xin ban phước cho kẻ ăn mày này để nó có thể sống trong cô liêu.
Trong thành phố của huyễn ảo phù du,
Người lữ khách từ phương xa đã đau lòng cảm xúc.

Trong miền Gungthang tuyệt vời đẹp đẽ
Những đàn cừu, bãi cỏ xanh tươi
Bây giờ chỉ còn là nơi hoang vu ma quỷ.
Đấy, thêm nữa một thí dụ của huyễn ảo phù du,
Một tấm gương đẩy dồn tôi vào thiền định.

Căn phòng chính của ngôi nhà Bốn Cột và Tám Xà
Bây giờ đổ nát xù xì như bờm một con thú.
Ngôi nhà tôi với bốn góc, bốn tường và tháp nhọn
Ngày hôm nay tả tơi như một cái tai lừa.
Đấy, thêm nữa một thí dụ của huyễn ảo phù du,
Một tấm gương đẩy dồn tôi vào thiền định.

Miếng đất tốt tươi của tôi, Tam Giác Phì Nhiêu,
Bây giờ cỏ dại thôn tính.
Anh em họbà con thân thuộc
Ngày nay là những kẻ thù ghét tôi,
Mở cuộc chiến chống lại chúng tôi.
Đấy, thêm nữa một thí dụ của huyễn ảo phù du,
Một tấm gương đẩy dồn tôi vào thiền định.
Bây giờ người cha tốt của tôi, Mila Ngọn Cờ Trí Huệ,
Không còn nữa, không còn dấu vết.
Mẹ của tôi, Bạch Ngọc, dòng dõi Nyang,
Không là gì ngoài một đống xương tàn.
Đấy, thêm nữa một thí dụ của huyễn ảo phù du, 
Một tấm gương đẩy dồn tôi vào thiền định.

Thầy tu của gia đình, Những Viên Ngọc của Cõi Trời,
Bây giờ đi làm đầy tớ.
Những cuốn sách thiêng, Lâu Đài Châu Ngọc,
Ngày nay là tổ của đám chuột hoang.
Đấy, thêm nữa một thí dụ của huyễn ão phù du,
Một tấm gương đẩy dồn tôi vào thiền định.

Người cậu bên ngoại của tôi, Yung Chiến Thắng,
Ngày nay sống giữa kẻ thù của tôi.
Em gái tôi, Peta Che Chở Hạnh Phúc
Lưu lạc nơi đâu không một dấu tích nào.
Đấy, thêm nữa một thí dụ của huyễn ảo phù du,
Một tấm gương đẩy dồn tôi vào một cuộc đời thiền định.

Marpa Tôn Quý, bậc Bất ĐộngĐại Bi,
Xin ban phước cho kẻ ăn mày này để nó thiền định trong cô quạnh.”

Buồn sầu, thầy hát bài ca ấy.

Người con của thầy giáo kêu lên, “Lạ lùng thay, nhưng đó là sự thật !” Và anh ta thở dài. Vợ anh ta nức nở khóc ròng. Thầy đã thấy cảnh hoang tàn của làng mình, và thầy không thể làm gì khác ngoài việc lập đi lập lại quyết tâm tiếp tục thiền định. Thầy giữ sự mong muốn này sâu tận đáy lòng mình và thường trực thực hành thiền định, thầy không còn lý do nào để hối tiếc.

Milarepa nói như thế. Đây là chương thứ sáu, trong đó Milarepa được tính phù phiếm huyễn ảo của sanh tử thuyết phục, quyết định hiến mình cho thiền định.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31692)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10542)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11243)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12774)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10823)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16691)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10832)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22985)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12043)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11509)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10705)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12356)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11205)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10044)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10338)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11936)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10708)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12391)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9831)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11291)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13853)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9586)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12645)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9715)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10473)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10585)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10339)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9917)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11068)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12028)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10152)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10799)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9549)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9907)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8782)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9510)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14535)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8784)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12570)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10434)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9094)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10569)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9349)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8817)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10531)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9207)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8375)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12044)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9705)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10223)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10237)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19164)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9422)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8999)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9595)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9026)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14774)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10108)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8363)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8960)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8986)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8753)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9386)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14615)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9048)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8789)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9057)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10543)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8653)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 10008)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24304)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10186)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11036)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9015)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9489)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8018)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9281)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15365)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10347)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9593)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17463)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21421)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12179)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10241)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19272)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26063)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7986)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14825)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10647)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11365)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9546)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18700)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12379)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11898)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10767)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13353)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10009)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9282)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9403)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15917)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant