Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hạt giống từ cơn mưa

15 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12029)
Hạt giống từ cơn mưa

HẠT GIỐNG TỪ CƠN MƯA

Kính dâng lên Đức Phật,

Nhân ngày Đản Sanh năm thứ 2634

với tấm lòng xin được làm người con thảo..
Cư sĩ Liên Hoa

Mưa về rồi đó em
Hàng cây bao năm ngủ

lắng nghe mưa tí tách

chiếc áo thơ ướt mềm

những ánh mắt hồn nhiên
nằm yên dưới cõi đời

từng bao năm ngóng đợi

thả cánh diều ước mơ

có chú bé mỉm cười 
mảnh tâm thả bong bóng

bay giữa đời nhân gian

gọi tiếng sóng vỗ về

ta đi từ vạn kiếp
dừng chân bến, nẻo đời

hoang sơ về giấc mộng

thả con thuyền tuổi thơ…

Ngày hôm nay, mưa gió nhiều quá, hồn nhiên kéo dài từ suốt ngày qua đến hôm nay. Lắng nghe không gian ẩm ướt đổ về, tràn lan. Những cành cây lá hân hoan tắm mình trong mưa, có từng cơn gió mênh mang, lảng vảng thả tiếng cười, đùa vui cùng nhau mở hội. Những áng mây lơ lửng, lang thang lặng trên bầu trời, cùng hoà nhịp nhảy múa của thiên nhiên, đất trời, hát những bài ca tình yêu thật đẹp. Ngày như đang ẩn mình trong đêm, vì bầu trời âm u. Có ai ngăn được cơn mưa, có ai dừng lại được màu xuân sắc, có ai thầm hỏi ai rằng rồi đời sẽ ra sao, trước những cơn sóng vô thường? 

Hạnh phúc hay khổ đau cũng thường được ví như mưa gió của cuộc đời, kéo dài lên thân phận con người, do nghiệp lực của quá khứ, do những gì mới tạo, trợ duyên đến... để cho những cành hoa nghiệp được dịp nở rộ trong đời sống. Đó là cơn đau của bất hạnh hay niềm vui? Tại sao lại có cơn đau trong niềm vui, hạnh phúc, chứ không phải là khổ đau chỉ xuất hiện trong khi bất hạnh, bất như ý trong cuộc đời? Làm sao tách rời ra được trong thân tâm bóng dáng của nhị nguyên, ở một con người, vì đó là những gì được gọi là thân thương, là chán ghét, dù muốn hay không, mang theo mình trong những giai đoạn thời gian tác tạo, của quá khứ, vào đời sống hiện tại, chào đón vui mừng hay sầu khổ trước tám ngọn gió khi hội đủ điều kiện, miên trường tác động đến ….

mắt khóc, môi cười
mắt màu xa vắng

khoắng vào vọng tâm

vạn hoa vỗ cánh

tay nắm vô cùng

tìm lại liên hoa.

Có vài hạt cát
nằm ở lưng trời

Nghe trong lối nhỏ

tiếng thở bạt ngàn

lá cây réo gọi

đời vẫn reo vui

đời không thương ta,
hay ta vô tình

chẳng độ lượng đời

bất hạnh thân tình

nào phải xa lạ

năm nào mơ mộng,

nay lại lãng quên ...

Trong vũ trụ này, tất cả đều do duyên sanh duyên hợp và các pháp đến đi đều như vậy, đủ duyên thì hợp lại, hết duyên thì tan rã, không một thương tiếc, không một hân hoan, không một chào đón hay không một mặc niệm, chia lìa. Con người khổ đau bởi vì bám chặt, tưởng chừng là vĩnh cửu, dù là cơn gió nhẹ thoảng qua, dù là bóng mây mờ nhạt, dù là bờ vai rung rung, yếu đuối, có nụ cười nước mắt, có ánh mắt hoàng hôn, có lắng nghe sâu thẳm… biểu hiện trên thân phận con người

Em bên ta khi cơn mưa nhỏ hạt
Sóng gió về, bóng dáng vội đi đâu

Ôi thời gian, hoa lá đến nhiệm mầu

Lòng chân chất, nở cánh hoa tuyệt đẹp...

Người sống với đời bình thường, khi đón nhận những trận gió ngao du, dù nhẹ nhàng, mát dịu, cũng bị “u đầu xước trán”, than thân trách phận cho cuộc đời. Người thành công, đầy đủ danh vọng, tiền tài, sắc đẹp, tình yêu… bỗng một hôm, nhận thức được vô thường, ảo hoá, chợt bâng khuâng, dâng lên niềm đau, nổi thống khổ trong sự mất mát, hụt hẫng, chia lìa, và rồi cũng vui khóc, khổ đau. Người có chút lòng thành, học hạnh tìm lại tâm, khi cơn gió mơn man đổ về, có nặng có nhẹ, có như cuồng phong, hoặc như cơn lốc xoáy, có đau có khổ, có nước mắt mặn môi, có nụ cười dày dặn, cũng vẫn mang cơn đau, vẫn có nuối tiếc, để rồi buông thả, xả bỏ để tìm lại chân tình trong muôn vàn huyễn hoá quay cuồng, nên tự tâm hát dâng lên lời ca của con người..

Có phải chiếc nón, ngàn trùng cuối ngỏ
hay tâm tình, bóng dáng ngập ngàn phương

tìm cánh mây trời, phiêu lãng nơi nào

Đi đến với, áo mây luôn đổi sắc

một sáng tối, hoàng hôn mời nắng lạ
một chiều tà, vàng vọt ánh trăng về

ngồi im lặng, giữa hải triều sóng vỗ

từ góc lòng, vũ trụ mở duyên sinh…. 

Trong một bài Kinh A Hàm, có nói rằng: “Muốn biết kiếp quá khứ ra sao, hãy nhìn vào đời sống hiện tại. Muốn biết cuộc sống tương lai sẽ như thế nào, cũng hãy quán chiếu những việc làmhiện tại” (Dục tri tiền thế nhân, đương kim thọ giả thị. Yếu tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị). Vâng, chỉ có luật nhân quả mới trả lời cho hết tất cả những vấn nạn trên thế gian nầy, vì đó là định luật thiên nhiên, không do một ai chi phối, ban ơn hay cứu hoạ. Cuộc đời là một sự mâu thuẫn nội tại, tương tác giữa hai cặp bài trùng, nhị nguyên, nhiều khi đến khó hiểu. Nhưng, “bất muội nhân quả” sẽ giúp con người vũng tâm trong đời sống, giữ gìn thân khẩu ý trong chánh niệm để tránh bớt nghiệp lực và để có khi cũng phải vui vẻ chấp nhận những nghịch cảnh hoặc thuận cảnh đem đến cho mình.
 
Đối diện với cơn mưa của thời tiết, ướt trời nhũn đất, lạnh lẽo, âm u, để rồi so sánh với những đợt mưa trong đời sống của mỗi con người. Cơn mưa làm cho chúng ta có khuynh hướng ẩn núp trong một không gian nào đó, để tránh né, chạy trốn, sợ ướt thẩm da thấm thịt, ẩn tạm để thoát qua khỏi trong thời gian ngắn hay mưa nhiều ngày. Nhưng cơn mưa gió của nội tâm lại làm cho chúng ta có thể sợ hãi, lo lắng, bồn chồn, chờ đợi, chui vào tủ quần áo trốn, nhưng rồi, mưa vẫn đến, xoáy trong tâm khi tâm bị chao đảo, ngụp lặn trong những vọng tưởng, chấp trước. Có ai là không gặp hoàn cảnh tương tự trong suốt đời sống, mân mê với hạnh phúc, rã rời với niềm đau, cười méo xẹo với những gì đem đến, nhiều khi khóc than thi đua với cơn mưa, xem chừng nước mưa trời đổ xuống nhiều hay nước mắt chảy nhiều.
 
Chúng ta cũng từng biết đến cơn mưa đã rải nước tắm cho một vị Thánh nhân thị hiện giữa cõi đời, dưới cành cây vừa nở cánh hoa Vô Ưu, trong vườm Lumbini cách đây 2634 năm về trước.

Cơn mưa đó khác thường vì đến từ tấm lòng, đến từ sự qui kính của trời người, đối với con người bình thường mang nguyện lớn nối tiếp từ Hạnh nguyện của Bồ tát Hộ Minh, để thực hiện toàn mãn đại nguyệnthành Phật, để cứu độ chúng sanh thoát khỏi khổ đau. 

Như Kinh Pháp Hoa nói rõ: “Ta vì một đại sự nhân duyên là muốn cho tất cả chúng sanh ngộ được Phật Tri kiến, nên thị hiện vào cõi Ta bà”. Và qua đó, thể hiện nhân cách của Bậc Siêu Việt, một tấm lòng rộng lớn, biểu lộ từ lúc Đản sanh, qua bốn cửa thành thấy rõ sanh già bệnh chết, xuất gia tầm đạo, ngồi dưới cội cây bồ đềchứng quả Chánh Đẳng Chánh Giác

Vườn Lumbini, một nơi chốn ở quê ngoại của Thái tử Siddhartha, mà Hoàng Hậu Maya trên đường trở về để chờ ngày lâm bồn, vịn cành cây Vô ưu, và nơi đó, một vị Thái tử đã được Đản sanh. 

Tôi đã đến nơi nầy trong chuyến Hành hương tại Ấn độ và Nepal, và đã ngồi im lặng, thiền quán để suy niệm về sự xuất hiện của vị Thánh nhân. Vẫn còn đó trụ đá, hồ nước nơi có chín vị Long vương phun nước tắm cho Thái tử, cảnh vật chung quanh. Thời gian dài qua bao nhiêu thế kỷ, bao nhiêu biến đổi, thịnh suy, rêu phong, lẫn với sự phá hoại của những tâm niệm vô minh, thần quyền, độc hại đã tàn nhẫn làm tàn phai, hũy hoại bao nhiêu những hiện hữu của Thánh tích thời đó.

Ngồi lắng yên để nhìn lại khúc phim lịch sử hy hữu trên thế gian nầy, đang quay lại diễn tiến về ngày trọng đại của trời người, của muôn loại, là đón chào vị Thánh nhân. Người đã đi 7 bước, mỗi bước chân đều có hoa sen nâng đở. Tay chỉ trời, tay chỉ đất và nói rằng “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”. 

Bước chân của Người dẫm trên mặt đất làm rung động của ba ngàn thế giới, làm sợ hãi những ác tâm, làm niềm hoan hỷ cực kỳ kiên cố cho những tấm lòng muốn hoàn thiện chính mình. Cũng là bước chân tiếp nối của 6 đời chư Phật vừa qua trong hiện tại, vững vàng trong tâm nở hoa sen, thị hiện trong cõi đời năm trược, vì lợi ích muôn loài. Bước chân được nâng nhẹ bởi 7 đoá sen thật đẹp, tươi sáng của thanh tịnh, ngọt ngào của tâm từ bi, và của lưu ly trí tuệ xuyên suốt màn vô minh, cháy tan thất tình hằng chi phối trong nội tâm con người.

Có phải đất trời đang chuyển động
Hay lòng người muôn cõi mở hoa tâm

Bóng dáng Thánh nhân thị hiện vào đời

Ánh mặt nhật bỗng cúi đầu kính cẩn

Thái tử Siddhartha !
Đoá hoa Vô Ưu

vườn Lumbini

những lời từ bỗng nhiên hiện rõ

như vầng trăng chiếu sáng cuộc đời

làm sao nói hết

làm sao ghi lại

chỉ lòng thành tỏ bày hoan hỷ

để khắp cùng muôn loài qui ngưỡng

đất đã tịnh để chân Người bước

nuớc đã thanh rải tắm thân mình

vũ trụ nở hoa mầu an lạc 

đón chào Người vào buổi sớm tinh khôi

cánh sen toả hương thơm ngát

như lòng trong, nối tiếp nguyện bao đời

nào phải Người thị hiện một lần trong các cõi

tự bao giờ, khi có khổ đau

khi loài người bất hạnh

sen vẫn nở khi tâm quay lại

đức Phật hiền từ

vẫn mỉm cười

Đản sinh sáng người, 

từ bi tưới mát

có mặt trong tâm

lại là một lần trong bao lần thị hiện….

Vâng, lại là một lần trong bao lần Người thị hiện, khi con người đau khổ, quán chiếuchuyển hoá nội kết, nghiệp lực. Cái điệp khúc thánh thiện nầy nói lên tấm lòng yêu thương chúng sanh vô bờ bến, của đức Phật, như “đa tình thị Phật tâm”. Mỗi khi đau khổ, thất thần trong những biến động của cuộc đời, đối diện của cơn đau, của mất chánh niệm dẫn đến những bâng khuâng giữa các khuấy động triền miên trong tám ngọn gió, thấy đời sống bế tắc, vô định, không biết đi về đâu “tiền lộ mang mang bất tri hà vãng”… chính khi đó, khi tâm quay về (quy y) với đức Phật của chính mình, đức Phật tức thời đã có mặt, thị hiện trong lòng của chính người đó. Quay về với Như Lai Tạng, Bạch Tịnh Thức, Chân Tâm… là quay với Tuệ giác vẫn hằng hữu có mặt trong tâm, dù qua bao nhiêu sóng gió, vọng động v.v... thì ánh đèn Tuệ Giác đó cũng vẫn còn, vẫn chiếu soi tỏ để tan biến những phiền não, cấu uế đem tâm thức con người đang lâm vào chốn buồn đau, “tuệ nhật phá chư ám”.

Không phải Thông điệp của đức Phật đã nói là chỉ có “Chân Tâm” là cao quí nhất trong vũ trụ nầy? Không phải là đức Phật đã nhìn thấy là trong mỗi một hữu tình đều có đầy đủ tánh Phật, làm nên vị Tỉnh Thức, nên đã bao lần tiếng sóng Hải triều âm vẫn vọng vang đến cho nhân loạiTất cả chúng sanh đều là Phật sẽ thành”. 

Cơn mưa Pháp tiếp nối trong suốt lộ trình thể hiện Đại Nguyện của Người trong cuộc đời, đối diện với biết bao nhiêu là vấn nạn của các hữu tình đang bị chi phối, lâm vào, khổ đau.. 

Chúng ta từng đọc Kinh A Di Đà, từng được biết rằng đã có Mười phương Chư Phật cùng đồng thời xưng tán Công HạnhBi Nguyện lớn của đức Phật đã đi vào cõi đời năm trược của uế độ Ta bà, thành Phật và vì tất cả khổ đau, bất hạnh của muôn loài mà truyền bá giáo Pháp đem lại Tự tại, An lạcGiải thoátước mong tất cả mọi người, mọi loài đều đạt được Tri kiến như đức Phật.

Cơn mưa Pháp đó hiển lộ từ thời Đản sanh, thành Đạo và xoáy chuyển vào tâm thức của mỗi người, mọi hữu tình vì từng giọt mưa Pháp đó, rơi xuống đồng đều khắp cùng tâm không gian, vũ trụ, không phân biêt màu da, sắc tộc, địa phương, mà chỉ tùy theo trình độ, căn cơ và sự tiếp nhận của mõi người mà tác động đến, để chuyển hoá, tạo thành một năng lực kỳ diệu đem lại Chân Hạnh Phúc hay sự hoàn thiện trở thành con người Nhân bản đích thực.

Và cơn mưa Pháp đó cũng thấm sâu vào tâm tôi trong giờ phút nầy, ngồi lắng lòng trước những Thánh tích Lumbini, quán chiếu tất cả khúc phim thật đẹp dâng cho muôn loài của Thái tử Siddhartha khi thị hiện giữa cõi đời, khi con người đau khổ quá nhiều bởi vì giai cấp, vì tham vọng, vô minh, mù quáng…để chỉ nẻo về bờ Giác. Những hình ảnh vi diệu đó vẫn có mặt hôm nay, vẫn chưa bao giờ mất, dù có bao biến đổi của hiện hữu, vì lòng tôi thanh tịnh bây giờ, kiên định trong tâm hướng đến. Tôi thật vô cùng xúc cảm, nước mắt rơi xuống, mở rộng cõi lòng sung sướng, cảm thấy mình quá may mắn, hạnh phúc khi được là người Phật tử, con của Ngài, của đức Phật và đón nhận gia tài của Ngài để lại trong tấm thân hèn mọn nầy.

Tiếng gầm của Chúa Tể Sơn lâm, bước chân của Lộc Tượng, tấm lòng của vị Thầy của trời người, đức Phật với Thông điệpchiến thắng vạn quân, không bằng tự chiến thắng và chiến thắng chính mình là chiến công oanh liệt nhất” đã đi thẳng vào trái tim sôi động tình yêu thương, nhìn rõ bản chất Thánh thiện trong mỗi người, với sự khiêm cung của vị Bồ tát Thường Bất Khinh trong Kinh Pháp Hoa, lời nói đã như bao lần nhắc nhở: “Tôi không dám khinh các người, vì các người là Phật sẽ thành”…

Những lời nhắn nhủ, đánh thức tâm đó quá đẹp, quá cao thượng, quá nhân bản, bình đẳng …mà chúng ta chưa hề nhận thấy nơi bất cứ một tôn giáo nào, bởi vì Thông điệp nầy được đến từ sự chứng ngộ Chân Lý của một Đại Tỉnh Thức, nhìn rõ bản chất, tự tánh của muôn loài, vũ trụ. Không có vì lý do gì mà chúng ta sợ hãi, tự ti … không dám chấp nhận và tiếp cận.

Chúng ta có thể than trách rằng: “tại vì mình thiếu phước đức, không được sinh vào thời Phật còn hiện tiền, cho nên, đến giờ vẫn còn lưu lạc, trầm luân...”, nhưng đối với tôi, một chúng sanh nhỏ bé, tầm thường, sự hiểu biết hạn hẹp, có mặt trong cuộc sống ngày hôm nay, trong giờ phút nầy, tôi lại cảm thấy mình còn có quá nhiều may mắn, phước báu đã gặp được giáo Pháp Từ Bi Hỷ Xả của đức Phật còn truyền lại cho đến ngày hôm nay, và mình còn có duyên để tiếp cận, tu tậpchuyển hoá cho cuộc đời. Vì giả sử như Giáo Pháp không còn hoặc vì lý do gì đó, như vì thiếu duyên, vì vô minh, không nhận thức được mình có Tánh Phật và vô tình, nên không chấp nhận, không tiếp cận đến Giáo Pháp uyên thâm, giải thoát nầy, thì chúng ta sẽ ra sao?

Ngàn năm xưa, nào ai biết
Trăm năm qua, nào ai hay

chỉ biét hôm nay

trong giờ phút nhiệm mầu

tôi đã thấy

trong lòng mình

đức Phật thị hiện

Ôi hạnh phúc

một lần trong muôn một

sát na quay về

mưa Pháp rải tràn lan

nội kết khổ đau

chuyển thành hoa nhân ái

để bước đi đời,

luôn sánh bước cùng người 

dù đôi chân non dại

dù bụi đời chưa phai

nhưng trong tâm vẫn nở

đức Phật nhỏ cười vang …

Thưa bạn ! Cuộc đời vẫn đầy dẫy khổ nạn của và trong biết bao nhiêu người trên hành tinh nầy. Trong cộng nghiệp, chiến tranh vẫn còn đó và còn có nguy cơ lớn hơn, tiêu diệt nhân loại. Thiên tai do lũ lụt, núi lửa, bão tố, sóng thần vẫn còn và luôn ảnh huỡng đến ưu tư, căng thẳng cho mọi người. Nhân tai, nạn tai, bất công, tranh chấp, kỳ thị, độc tôn, môi sinh bị tàn hoại, phá hũy v.v... vẫn là nổi niềm bất hạnh, gánh nặng, khổ đau, gây tác hại đến mọi sự sinh tồn, mọi hiện hữu, được dẫn dắt bởi ba độc si tham sân. Nhiều thiên niên kỷ qua đã vậy, và nay thì vẫn tồn tại, và có chiều hướng gia tăng. Đời sống thì ngày càng được đầy đủ, văn minh, khoa học kỹ thuật ngày càng tiến bộ hơn và chúng ta có quá nhiều thời gian, trí thức, không gian để sinh sống, nhưng nguy cơ nhân loại bị hũy diệt chưa biết lúc nào, nếu thiếu chánh niệm hoặc do một phút không kềm chế được tâm tình.
 
Có phải nhân loại không ý thức được hiểm họa có thể xẩy ra bất cứ lúc nào nầy chăng? Có phải những giá trị tâm linh không còn tồn tại? Có phải tôn giáo đang có mặt không đáp ứng được nhu cầu tâm linh, chuyển hoá khổ đau, thống khổ, bất hạnh và đem tâm mê mờ trở về nơi an lạc? 
 
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác và đạo Phật đã thành hình từ sự Chứng Ngộ Chân Lý của vị Thánh nhân nầy. Là con người, Ngài đã từng trải qua vô lượng kiếp trầm luân, rồi với lòng Từ bi, phát nguyện lớn để độ sanh, nên Ngài hiểu rõ được tận tường sanh tử và những gì chi phối đến các chúng hữu tình. Là một vị Đại Giác Ngộ do chứng đắc Chân Lý, Ngài nhìn ra được màn lưới vô minh kéo dài theo sợi xích của 12 nhân duyên ràng buộc con người, làm trôi lăn trong biển khổ và cũng vì nhìn rõ được Tánh Phật trong mỗi người, Ngài vì Nguyện Lớn Khai Thị đó mà đã lặn lội qua bao nhiêu con đường trần, suốt hơn 49 năm vì sự đau khổ, vì sự trầm luân trong vọng tưởng mê lầm của con người, mà dấn bước bằng tất cả tấm lòng thương yêu, bằng cả cuộc đời dâng hiến và bằng sự kiên định tối thắng của vị Đại Giác… vì sự đau khổ của muôn loài chúng sinh.
 
Đạo Phậtcon đường đi đến bờ Giác, con đường Tỉnh Thức, chỉ rõ các pháp đều do duyên sinh, vô thường, huyễn hoá, nhưng không phải để chúng ta xa lánh cuộc đời, chạy trốn, bi quan, yếm thế… nhưng mà để dấn thân vào cuộc đời bằng sự chuyển hoá, hoàn thiện bản tâm và tiếp cận chia sẻ với mọi người để cùng tiến đến Chân Thiện Mỹ, qua giáp Pháp vi diệu của đức Phật

Đạo Phật là của mọi người trưởng thành, không phải do tuổi tác, học vấn, bằng cấp, chức vị, danh vọng, giàu sang phú quí… nhưng do tâm đã trưởng thành, chín mùi do được trưởng dưỡng chịu đựng, do vì kinh qua cuộc đời với biết bao nhiêu biến động, thăng trầm vinh nhục được thua vui buồn… đã gây nên những thống khổ, bất hạnh hay hạnh phúc giả tạm, không thực trong cuộc nhân sinh. Người Cùng tử trong trạng thái tay trắng, tâm trống rỗng, hốt hoảng… sẽ tìm đến với đạo Phậtđạo Phật trả lời.

Chúng ta hãy đến với đạo Phật trong tâm trạng đó, để tìm hiểu qua Văn (Nghe) Tư (Suy Tu) Tu (Tu tập). Bởi vì đạo Phật không phải đến để chỉ tin, cầu nguyện. Đức Phật từng nói rằng: «Người tin ta mà không hiểu ta, tức là phỉ báng ta», vì Ngài không phải là vị Thần Linh để ban bố ân huệ, thưởng phạt, nhưng Ngài muốn rằng mọi người hãy trở về với bản tâm, nhận thức mình có Tánh Phật và sống với, khai mở, trưởng dưỡng con đường rộng của nội tâm để vượt thoát khổ đau, qua bờ sanh tử và đó chính là nguyện lực thị hiện trên cõi Ta bà của Ngài. 

Tiếng chuông tỉnh thức của đạo Phật vẫn thong thả ngân vang giữa cuộc đời, không vội vàng, gấp gáp, nhưng mỗi thanh âm mang nguồn năng lực nội tại để giúp con người tỉnh thức. Chúng ta hãy cùng ngồi lại đây, nơi đại địa thênh thang, nơi không gian tâm trống rỗng nầy, cùng với nhau, tỉnh lặng, mỉm cười, lòng trong, thanh khiết.. và cùng nhau nâng chén trà của giáo Pháp, để chia sẻ, thưởng thức. Có phải chén trà ngon quá không ? Có phải hương trà thanh thoát không ? Chúng ta có lắng nghe lại lòng mình không, để nghe tiếng đập vô ngôn của nội tâm trong im lặng ? Những chiếc lá trà sen không có gì lạ, khác biệt với cuộc đời thường… mà chỉ có tẩm những hương vị thanh khiết, chân thường của Tứ diệu đế, Bát chánh Đạo, Tứ nhiếp pháp, Lục độ, Lục hoà… với chất phẩm không có gì cao sang, bí mật, huyền diệu, kỳ bí… mà thiết thực, yếu dụng, thoả lòng vì được tìm racon người và cho con người, để được trưởng thànhnuôi dưỡng tâm linh, có đời sống nhân bản cao thượng.

Tách trà
Thinh lặng

ba cõi

hiện về

hương bay
thấy sắc

cười ồ

ôm tâm…

- Đạo Phật đã được Liên Hiệp Quốc công nhận giá trị tâm linh cao thượng, cống hiến hữu ích, có thể đáp ứng để giải quyết vấn nạn cho người, cho môi trường sinh sống… trong hiện tạimai sau, nên đã tổ chức Đại Lễ Phật Đản Vesak vào mỗi năm, cũng như đưa những giá trị thực hữu của Giáo Pháp vào trong Toà nhà Liên Hiệp Quốc. Xá lợi của đức Phật cũng được an trí và Tôn thờ tại nơi đây.

- Là người con Phật, chúng ta cầu nguyện rằng giáo Pháp của đức Phật được lưu truyền, phổ cập khắp mọi nơi, và được mọi người tìm đến không bằng thành kiến, cố chấp, hẹp hòi, độc tôn… mà mở rộng tấm lòng để đến, để tiếp cận, tìm hiểu, nắm lấy những giá trị tâm linh thực tiển của giáo Pháp vi diệu, đem áp dụng vào đời sống để chuyển hoá khổ đau cho mình và chia sẻ cùng người… 

- Trước năm 1975, khi chiến tranh gây bao nhiêu là mất mát, tàn phá, tiêu hũy, chết chóc … trải dài trên quê hương tôi và lúc đó, dù còn nhỏ, tôi vẫn được biết có những cuộc vận động ngưng chiến giữa hai miền Nam Bắc trong một ngày Đại Lễ Phật Đản, và có kết quả, để tạm ngưng một ngày giết hại lẫn nhau, gây đổ máu, làm tổn thất sinh mạng, tạo nên cảnh sinh ly tử biệt. Và trong ngày đó, cũng đã được yêu cầu ngưng giết hại các con vật, các loài súc sinh tại các lò sát sinh trên toàn quốc... vì để tránh được nghiệp sát sẽ đem lại kết quả bớt nghiệp chiến tranh, gây đau khổ cho nhân loại. Và dĩ nhiên, người Phật tử nếu không có được trường trai, cũng phải phát tâm ăn chay trong những ngày nầy.

lý do đó, cầu xin rằng nếu có thể, sẽ có những cuộc vận động lớn trên toàn thế giới, thể hiện đức Từ Bi Hỷ Xả của đức Phật, để cho mọi nơi chốn, dù bất cứ nơi đâu, đang có lò lửa chiến tranh… xin cho ngưng bắn, nếu có thể trong một ngày kỷ niệm Phật Đản Vesak và cũng xin cho mọi loài vật không bị sát hại trong ngày nầy. 

- Cầu xin cho mọi người không còn thành kiến, cố chấp, vị kỷ hay vì tham vọng gì đó, mà người người gây hại, thù hận lẫn nhau. Xin cho tình huynh đệ được nở rộ trong tâm của mọi người, và người người đến với nhau bởi sự tôn trọng và quí kính thân phận con người.

- Cầu xin cho mọi người, mọi loài đều được An Lạc, Chân Hạnh Phúc trong Ngày và Mùa Phật Đản do sự mở lòng, tu tập, chuyển hoá và làm cho đức Phật trong tâm thị hiện, không phải trong một ngày, mà nhiều ngày hay miên trường, để cuộc đời bớt khổ, được vui. 

Với tấm lòng đó, với sự chân thành của người con Phật, dù là còn sơ cơ, hiểu biết kém cỏi, chất phát, nhiều thiếu sót trong đời sống, trong sự nghiên cứu, tu tập… nhưng trong thân tâm vẫn muốn bộc lộ những lời đến từ tâm qui ngưỡng, cung kính, tri ân dâng lên đức Phật nhân ngày Đại Lễ Khánh Đản. Xin được thành kính dâng tặng và chia sẻ cùng tất cả mọi người, dù có đồng ý hay không, nhưng xin nhận nơi đây, như với lòng trân quí và kính chúc quí vị cùng gia đình... được nhiều An Lạc, Hạnh Phúc trong Mùa Phật Đản lần thứ 2634.

Thành kính dâng tặng và chia sẻ.

Mùa Phật Đản Vesak năm thứ 2634
Phật lịch 2554.

Viết xong ngày 17.05.2010

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25651)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37866)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19581)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18663)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14254)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20094)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9499)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14366)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35561)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10653)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19700)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23196)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13358)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10744)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20213)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10599)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9960)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14875)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17651)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17594)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13185)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31159)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25748)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13978)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17504)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10971)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12288)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10465)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12266)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11756)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9613)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12352)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9195)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8491)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9954)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9756)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12029)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14414)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9899)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11203)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8294)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10968)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14082)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9905)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15203)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13036)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23074)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23985)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12566)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15423)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17783)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15047)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16549)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16089)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17634)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11588)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11616)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17823)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10778)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10518)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11321)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12077)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11045)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36413)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8960)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9676)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34708)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17260)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10240)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10468)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12197)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13632)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14662)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9147)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24802)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11636)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10314)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15937)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15568)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14517)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13002)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12444)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14577)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18353)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9569)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18514)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18583)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19016)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18833)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11829)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13337)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47985)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11064)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13546)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13035)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11061)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12552)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11051)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31769)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11662)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant